Bản án 28/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1453/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn C, sinh năm: 1974; quê quán: Xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn HK, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân C1 và bà Võ Thị C2; có vợ và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1993 và nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam: Không; bị cáo hiện đang tại ngoại, có mặt.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Đình P, sinh năm: 1989; địa chỉ: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ (chết).

- Đại diện gia đình người bị hại:

+ Chị Lê Thị Ánh N, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ. – có mặt;

+ Bà Đoàn Thị L, sinh năm: 1961; nơi cư trú: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ;

Người đại diện theo uỷ quyền của bà Đoàn Thị L: Chị Lê Thị Ánh N, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ. – có mặt.

- Người có quyền lợi liên quan: Cháu Nguyễn Lê Hà M, sinh ngày 25/7/2015; nơi cư trú: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ.

Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Lê Hà M: Chị Lê Thị Ánh N, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn HN, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ. – có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Võ Văn P1, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn HK, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ – vắng mặt;

+ Bà Võ Thị N1, sinh năm: 1974; Thôn HK, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/01/2019, Trần Văn C (không có giấy phép lái xe) điều khiển xe máy cày hiệu ISEKI 2300, kéo rơ mooc tự chế chở bột đá từ xí nghiệp chế biến đá VRG thuộc thôn HK, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ đi trên đường bê tông liên xã về nhà theo hướng Tây – Đông. Khi điều khiển xe đi được một đoạn khoảng 80m, C nhìn thấy đoạn đường phía trước và ở phía Nam có nhiều “ổ gà” nên C đột ngột đánh tay lái qua bên trái theo chiều đi của mình để tránh né. Vừa lúc đó, Nguyễn Đình P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77H9-… chạy cùng chiều phía sau đang vượt lên phía bên trái xe máy cày kéo rơ mooc do C điều khiển thì tay lái bên phải của xe mô tô do P điều khiển va chạm vào thành phía trước bên trái của rơ mooc làm xe mô tô và P ngã xuống đường. Hậu quả: Nguyễn Đình P bị thương, cấp cứu điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh BĐ từ ngày 13/01/2019 đến ngày 29/01/2019 thì tử vong.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông được mô tả tại sơ đồ hiện trường và biên bản khám nghiệm hiện trường lập ngày 13/01/2019.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 13/2019/PY-TT ngày 21/3/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh BĐ kết luận: Nguyễn Đình P tử vong do “chấn thương gây gãy cột sống cổ chèn ép tủy đã điều trị không hồi phục”.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Trần Văn C đã khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại số tiền 150.000.000 đồng. Gia đình bị hại đã làm đơn bãi nại và đơn miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-….; đầu máy cày hiệu ISEKI 2300; 01 rơmooc tự chế. Ngày 15/8/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Mỹ đã giao trả xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-…. cho Lê Thị Ánh Nt và trả lại đầu máy cày hiệu ISEKI 2300 cho Trần Văn C.

Tại bản Cáo trạng số: 27/CT-VKS-PM ngày 28/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Trần Văn C ra trước Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố, nêu luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 260; các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt Trần Văn C từ 12 đến 18 tháng tù.

- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong và đại diện gia đình người bị hại không có yêu cầu bồi thường thêm, nên không xét.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu huỷ: 01 rơ mooc tự chế.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên; không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa đại diện gia đình người bị hại xác nhận: Đã nhận lại xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-…. và nhận đủ số tiền 150.000.000 đồng mà bị cáo C đã bồi thường. Không yêu cầu bồi thường thêm, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của nạn nhân P và không yêu cầu bồi thường thiệt hại xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-….; không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có điều kiện làm ăn, chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Phù Mỹ, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với Sơ đồ hiện trường và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/01/2019, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn HK, xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ (đoạn đường gần Xí nghiệp chế biến đá VRG), bị cáo Trần Văn C điều khiển xe máy cày hiệu ISEKI 2300, kéo rơ mooc tự chế đi theo hướng Tây – Đông. Bị cáo chủ quan, thiếu chú ý quan sát nên khi phát hiện có ổ gà phía trước bị cáo đột ngột đánh tay lái về bên trái để lách tránh gây tai nạn với xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-…. do Nguyễn Đình P điều khiển chạy cùng chiều phía sau đang vượt lên. Hậu quả: Nguyễn Đình P bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh BĐ đến ngày 29/01/2019 thì chết.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật giao thông đường bộ và Khoản 3 Điều 8 Thông tư số: 06/2011/TT-BGTVT ngày 07/3/2011 của Bộ Giao thông vận tải quy định về bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho người điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ thì người điều khiển xe máy chuyên dùng phải có “Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng”. Do đó, bị cáo Trần Văn C điều khiển xe máy cày tham gia giao thông không có bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng do cơ sở đào tạo lái xe ô tô cấp.

Hành vi của bị cáo Trần Văn C điều khiển xe máy cày tham gia giao thông không có Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng; bị cáo điều khiển xe máy cày kéo theo rơ mooc tự chế thiếu chú ý quan sát đột ngột đánh tay lái xe sang trái gây tai nạn giao thông với xe mô tô biển số 77H9-…. do Nguyễn Đình P điều khiển đi cùng chiều phía sau đang vượt lên.

Hành vi của bị cáo C thực hiện với lỗi vô ý, đã vi phạm Khoản 4, Khoản 23 Điều 8 và Khoản 1 Điều 62 Luật Giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng, làm chết 01 người. Hành vi của bị cáo Trần Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông được xác định là lỗi hỗn hợp giữa bị cáo C và nạn nhân P: Đối với bị cáo C vi phạm qui tắc giao thông đường bộ, thực hiện hành vi không quan sát phương tiện phía sau đột ngột đánh tay lái cho xe sang trái gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ là vi phạm Khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ. Đối với nạn nhân P điều khiển xe mô tô trên đoạn đường hẹp, có nhiều ổ gà, phía trước cùng chiều có xe máy cày do bị cáo C điều khiển nhưng vượt xe không đảm bảo an toàn là vi phạm điểm a Khoản 5 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, để lại hậu quả nghiêm trọng. Hành vi đó không những trực tiếp gây thiệt hại cho tính mạng anh P; gây đau thương, mất mát lớn cho gia đình người bị hại, mà còn làm ảnh hưởng chung đến tình hình quản lý an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở địa phương. Nên cần thiết phải lên một mức án tương xứng với hành vi của bị cáo, để bị cáo có đủ thời gian cải tạo, giáo dục trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã có trách nhiệm bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại, được gia đình người bị hại bãi nại dân sự và có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự; người bị hại cũng có một phần lỗi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Bị cáo có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, không cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

- Đối với thiệt hại tính mạng của anh Nguyễn Đình P: Các bên đã thỏa thuận bồi thường số tiền 150.000.000 đồng xong. Tại phiên toà đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm, nên không xét;

- Đối với thiệt hại xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-…., chủ sở hữu không yêu cầu bồi thường, nên không xét.

[6] Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô biển số kiểm soát 77H9-…..; 01 đầu máy cày hiệu ISEKI 2300, Cơ quan cảnh sát điều tra đã giao trả lại cho chủ sở hữu xong, nên không xét.

- Đối với rơ mooc tự chế là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu, tiêu hủy theo điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

[7] Về đề nghị của Kiểm sát viên đối với vụ án: Về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo đều phù hợp với nhận định trên, nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 260; các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Văn C 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 23/10/2019).

Giao bị cáo Trần Văn C về cho chính quyền địa phương nơi cư trú là UBND xã MH, huyện PM, tỉnh BĐ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Trần Văn C thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Trần Văn C cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Trần Văn C phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu huỷ: 01 (một) rơ mooc tự chế. (Theo Quyết định chuyển vật chứng số 16/QĐ-VKS-PM ngày 28/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/9/2019 giữa Công an huyện Phù Mỹ với Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Bị cáo, đại diện gia đình người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về