Bản án 29/2017/DS-ST ngày 24/08/2017 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 29/2017/DS-ST NGÀY 24/08/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ VÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở

Trong các ngày 27/07/2017 và ngày 24/08/2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2016/TLST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2016 về việc “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2017/QĐ-ST ngày 05 tháng 06 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm số 28/2017/QĐST-DS ngày 05/07/2017, giữa các đương sự:

 1 / . Nguyên đơn  :

1.1- Ông Nguyễn Văn T (tên khác C), sinh năm 1958.

1.2- Bà Giang Xuân M, sinh năm 1963.

Cùng địa chỉ: đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (cùngcó  mặt)

 2 /Bị đơn

Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1970; Địa chỉ: đường T, phường Z, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

 3/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1- Ủy ban nhân dân thành phố S; Địa chỉ: đường P, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

3.2- Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ: đường C, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

* Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn H - Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, theo văn bản ủy quyền số 24/UBND-NC ngày 06/01/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng. (có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Triệu Công D – Chức vu: Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng, theo văn bản cử số 25/UBND- NC ngày 06/01/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

3.3- Bà Tăng Thị H, sinh năm 1932; Địa chỉ: Đường P, phường X, thành phố S,tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 28/10/2015 và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M trình bày: Vào năm 1984, ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M được cha, mẹ là ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H cho nền đất có kích thước ngang 5m, dài 8,5m tại đường L, phường X, thị xã S, tỉnh Sóc Trăng (nay là đường P, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng), sau đó ông T và bà M đã cất căn nhà lá có chiều ngang 4m và chiều dài hết đất. Vào tháng 8/2013 ông T và bà M cho bà Nguyễn Thị Tuyết T (em ruột) mượn phần đất có diện tích ngang 1m và dài hai bên là 6,4m (diện tích 6,4m2), nằm trong diện tích 32,1m2 để cất nhà ở kiên cố, kết cấu bê tông cốt thép, vách tường và tole thiếc. Đến ngày 20/11/2014 ông T và bà M được UBND thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số  BX944071, đất có diện tích 32,1m2, loại đất ở, số thửa 625, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây với bị đơn:

- Buộc bà Nguyễn Thị Tuyết T tháo dỡ nhà có kết cấu cột bê tông cốt thép, vách tường, tole thiếc để giao trả lại phần đất có diện tích 6,4m2 nằm trong thửa đất số 625, tờ bản đồ số 20 với vị trí tứ cận nêu trên cho ông/bà.

- Yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U279297 do UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H ngày 10/5/2002 do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này đã bao gồm một phần diện tích mà cha mẹ đã cho ông trước đó.

Tại biên bản hòa giải ngày 10/01/2017 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T có thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất 8,3m2 (ngang 1m, dài 8,3m) theo kết quả thẩm định thực tế ngày 26/12/2016.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T trình bày: Toàn bộ diện tích phần đất mà ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M đăng ký kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất vào năm 2014 có nguồn gốc do cha, mẹ là ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H khai phá, bồi đắp và sử dụng từ trước. Do đó, khi cha bà qua đời thì mẹ của bà tiếp tục sử dụng ổn định cho đến nay. Vào năm 1987, khi cha bà còn sống thì cha và mẹ của bà đã cho anh trai là Nguyễn Hùng M cất lên một căn nhà trên thửa đất này (ngay cầu đầu xéo) để sinh sống nhưng đến năm 1991 thì anh trai Nguyễn Hùng M bị bệnh tâm thần nên bà Tăng Thị H về sữa chữa lại căn nhà cho ông M và cho bà cất một căn nhà nhỏ trên thửa đất này để buôn bán sinh sống gần ông M để tiện chăm sóc, nuôi dưỡng và giúp đỡ mẹ già. Khi bà về xây cất trên quán này để buôn bán, chính bà đã thuê ông T đứng ra xây cất cho bà. Trong suốt thời gian xây dựng quán và cho đến tháng 06/2015 thì ông T và bà M cũng không hề có tranh chấp gì với bà mà chỉ có tranh chấp với mẹ là bà Tăng Thị H nhưng đến khi hòa giải tại UBND phường X thì ông T và bà M quay sang tranh chấp với bà nhưng việc tranh chấp này của ông T và bà M là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, bởi vì:

- Khi bà cất quán trên phần đất này là do mẹ của bà là người trực tiếp đứng ra chỉ cho bà cất chứ bà hoàn toàn không có mượn đất của ông T và bà M.

- Bà cất quán từ năm 2013 và quản lý, sử dụng liên tục cho đến nay, còn ông T và bà M đến ngày 20/11/2014 mới được UBND thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc này cho thấy bà là người đã sinh sống và làm ăn ổn định tại phần đất này trước khi ông T và bà M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà và bà Tăng Thị H hoàn toàn không hay biết việc ông T và bà M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng không ai ký giáp ranh cho ông T và bà M lập thủ tục kê khai, đăng ký phần đất này. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây:

- Bác toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M về việc buộc bà phải tháo dỡ nhà có kết cấu cột bê tông cốt thép, vách tường, tole thiếc để giao trả lại phần đất có diện tích 6,4m2 nằm trong thửa đất số 625, tờ bản đồ số 20 với vị trí tứ cận nêu trên cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M vì bà không có mượn đất cũng không có lấn chiếm đất.

- Yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071, đất có diện tích 32,1m2, (loại đất ở, số thửa 625, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) đã cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm người có quyền và nghĩa vụ liên quan  bà Tăng Thị H trình bày: Thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của bà Nguyễn Thị Tuyết T. Bà không đồng ý với lời trình bày của ông Nguyễn Văn T cho rằng bà đã tặng cho ông T phần đất có chiều ngang 5m, không đồng ý với yêu cầu của ông T về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà, vì bà chỉ cho ông T phần đất có chiều ngang 4m là chiều ngang của căn nhà hiện tại chứ không phải là cho tặng 5m như ông T trình bày. Còn 1m chiều ngang giáp đường P là bà cho con gái tên Nguyễn Thị Tuyết T quản lý, sử dụng. Đối với chữ ký trong tờ ủy quyền ngày 20/12/1994 đúng là chữ ký của bà, nhưng lúc ký là ký vào tờ giấy trắng, vì chính quyền địa phương kêu ký vào tờ giấy trắng để đổi số nhà chứ không phải ký cho 5m đất chiều ngang. Khi ông T, bà M lập thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng đất thì bà và bà Thu hoàn toàn không hay biết và bà cũng chưa bao giờ làm giấy tờ gì cho ông T, bà M phần diện tích đất đang tranh chấp. Phần đất này là của bà nhưng ông T, bà M lại tự ý đi lập thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

* Tại văn bản ngày 06/03/2017 người đại diện theo ủy quyền của UBND tỉnh Sóc Trăng trình bày: Phần đất có diện tích 75,9m2 thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30, loại đất ở, tọa lạc tại phường 8, thị xã S (nay là thành phố S) có nguồn gốc của bà Tăng Thị H khai phá sử dụng từ năm 1955 đến nay. Năm 2001 bà H lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được UBND tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 279297 ngày 10/5/2002.

Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ, thể hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Tăng Thị H là đúng theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Vì vậy nội dung yêu cầu của ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M là không đảm bảo cơ sở pháp lý để xem xét.

* UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng: Từ khi thụ lý đến nay không hợp tác và cũng không thực hiện nghĩa vụ của đương sự để trả lời cho Toà án biết.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu hủy quyết định cá biệt (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); Bị đơn giữ nguyên yêu cầu hủy quyết định cá biệt (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp hành đúng pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt, chấp nhận yêu cầu hủy quyết định cá biệt của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, theo phát biểu và đề nghị của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[I] Về tố tụng

[1] Theo đơn khởi kiện ngày 28/10/2015 của nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T tháo dỡ nhà ở để giao trả lại phần đất có diện tích 6,4m2 (ngang 1m, dài 6,4m) nằm trong diện tích 32,1m2, thử đất số 625, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U279297 ngày 10/5/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H. Đồng thời, tại Tờ phúc đáp ngày 06/11/2015 bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 (số vào sổ CH01484) ngày 20/11/2004 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp “Đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất” là đúng theo quy định tại khoản 9 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong vụ án dân sự do các đương sự yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Do vậy, Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thụ lý, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 34, Điều 37 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 và khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người đại diện theo ủy quyền của UBND tỉnh Sóc Trăng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Đối với người đại diện theo pháp luật của UBND thành phố S không thực hiện đúng nghĩa vụ của đương sự; Sau khi nhận Thông báo về việc thụ lý vụ án (nhận ngày 14/05/2016) người đại diện theo phápluật không thực hiện nghĩa vụ trả lời bằng văn bản cho Tòa án biết ý kiến và đề nghị của mình đối với yêu cầu của các đương sự theo quy định tại Điều 199 Bộ luật Tố tụng Dân Sự năm 2015 và cũng không tự mình hoặc ủy quyền cho người có thẩm quyền đại diện tham gia tố tụng, Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt, Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật Tố  tụngDân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.

[3] Diện tích đất tranh chấp theo đơn khởi kiện ngày 28/10/2015 nguyên đơn yêu cầu diện tích 6,40m2 (01m x 6,4m), theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày ngày 26/12/2016 diện tích 8,30m2 (01m x 8,3m). Tại phiên họp hòa giải ngày 10/01/2017 và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn yêu cầu diện tích 8,30m2 là nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện từ yêu cầu ban đầu diện tích 6,40m2  nay yêu cầu diện tích 8,30m2. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu của nguyên đơn tuy diện tích yêu cầu thay đổi có lớn hơn diện tích khởi kiện ban đầu nhưng vẫn nằm trong vị trí, mốc giới yêu cầu ban đầu, nên việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 279297 ngày 10/05/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng, tuy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này cấp cho hộ bà Tăng Thị H, nhưng nguyên đơn, bị đơn và các con bà H đều thừa nhận và xác nhận diện tích đất 75,9m2, thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30 là đất do bà H và ông T1 khai phá sử dụng và cất nhà ở từ năm 1955, đất này không thuộc trường hợp do Nhà nước thực hiện chánh sách đất đai cấp cho hộ và cũng không thuộc trường hợp hộ nhận chuyển nhượng của người khác, nay ông T1 chết thì bà H toàn quyền sử dụng và định đoạt. Do đó, không nhất thiết phải đưa thành viên hộ (các con bà H) tham gia tố tụng.

Về nội dung :

[1] Các đương  sự thống nhất diện tích đất tranh chấp 8,30m2 (01m x 8,3m) theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày ngày 26/12/2016 nằm trong diện tích 32,1m2, thuộc thửa 625, tờ bản đồ số 20 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, hiện  do bà Nguyễn Thị Tuyết T quản lý, sử dụng và xây dựng nhà ở kiên cố gắn liền trên đất.

[2] Các đương sự cũng thống nhất diện tích đất 75,9m2, thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 279297 ngày 10/05/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H, có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn T1 (chết năm 1998) và bà Tăng Thị H khai phá, sử dụng và cất nhà ở từ năm 1955, đất này không thuộc trường hợp do Nhà nước thực hiện chánh sách đất đai cấp cho hộ và cũng không thuộc trường hợp hộ nhận chuyển nhượng của người khác. Diện tích đất được cấp 75,9m2 (ngang tiếp giáp đường P 12,9m) là đúng hiện trạng sử dụng đất.

[3] Theo nguyên đơn thì vào năm 1984 được cha mẹ là ông Nguyễn Văn T1 (chết năm 1998) và bà Tăng Thị H cho vợ chồng nguyên đơn sử dụng và cất nhà ở phần đất ngang 05m, dài hết đất (nay theo đo đạc thực tế 5m x 8,3m), khi cho không lập giấy tờ, mãi đến ngày 20/12/1994 ông T1 và bà H mới làm “Tờ ủy quyền” cho đất, trong năm 1984 vợ chồng nguyên đơn cất nhà ở không kiên cố ngang 04m, dài hết đất và đến năm 2000 vợ chồng nguyên đơn cất lại nhà kiên cố ngang 04m, dài hết đất như hiện trạng hiện nay, phần đất còn lại cập bên hông nhà ngang 01m, dài hết đất (theo đo đạc thực tế ngang 1m, dài 8,3m, hiện tranh chấp) thì đến tháng 08/2013 cho bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T mượn cất nhà ở, trong việc cho mượn không làm giấy tờ. Ngược lại, bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T không thừa nhận là có mượn đất của ông T, mà cho rằng phần đất tranh chấp là của bà Tăng Thị H cho; Đồng thời, bà Tăng Thị H thừa nhận năm 1984 bà H và ông T1 có cho đất để vợ chồng nguyên đơn cất nhà ở, nhưng bà H chỉ xác nhận cho phần đất ngang 04m, dài hết đất như hiện trạng cất nhà, chứ không phải cho ông T phần đất có chiều ngang 5m như ông T trình bày, phần đất còn lại của bà chiều ngang từ giáp hông nhà ông T, bà M ra đến giáp đất đường công cộng ngang 03m (trong đó có 01m tranh chấp) là năm 2013 bà M cho bị đơn Thu cất nhà ở để mua bán sinh sống.

[3.1] Để chứng minh cho việc cho đất ngang 05m, dài hết đất nguyên đơn cung cấp cho Tòa án “Tờ ủy quyền ngày 20/12/1994 của ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H” có Ban nhân dân khóm 3 xác nhận (ngày 23/12/1994) và UBND phường 5 chứng thực (ngày 24/12/1994), có nội dung “…nay tôi làm tờ ủy quyền cho con tôi tên Nguyễn Văn T sinh năm 1958 một mãnh đất thổ cư để cất nhà bề dày 8m50 ngang 5m diện tích: 42m5 nhà là cây tạp bán kiên cố. Tôi cho con tôi được quyền sử dụng đất nền nhà nếu ai tranh chấp tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật”, bà H thừa nhận chữ ký trong tờ ủy quyền ngày 20/12/1994 đúng là chữ ký của bà, nhưng lúc ký là ký vào tờ giấy trắng, vì chính quyền địa phương kêu ký vào tờ giấy trắng để đổi số nhà chứ không phải ký cho 5m đất chiều ngang.

[3.2] Xét thấy, “Tờ ủy quyền ngày 20/12/1994 của ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H” về têu đề là “Tờ ủy quyền”, nhưng về bản chất và nội dung là ông T1 và bà H cho đất ông T “mãnh đất thổ cư để cất nhà bề dày 8m50 ngang 5m din tích: 42m5”, về hình thức cũng được ông Hà Thế T (Phó Ban nhân dân khóm 3) xác nhận và UBND phường 5 chứng thực theo quy định, theo chứng thực thì các bên (bên cho là ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H) ký tại UBND phường 5 và ký trước mặt người chứng thực. Đồng thời, theo Biên bản xác minh ngày 03/08/2017, ông Hà Thế T (nay Công chức Địa chính phường 8) xác nhận “…Tở ủy quyền là do ông Nguyễn Văn T1 đem lên cho ông ký xác nhận, sau đó đương sự tự đem lên UBND phường 5 chứng thực, khi ông T1 đem giấy cho ông xác nhận thì tờ ủy quyền đã ghi đầy đủ nội dung nên ông mới xác nhận. Còn về việc phía bà Tăng Thị H cho rằng khi đó ông đem tờ ủy quyền xuống nhà bà H để cho bà H ký và lúc đưa chỉ đưa giấy trắng rồi sau đó ông tự điền nội dung vào là không đúng…”. Nhưng tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M khẳng định “Tờ ủy quyền ngày 20/12/1994” do chính bà M viết theo sự hướng dẫn của người khác (ông Hoàng công an), sau khi viết bà M đem cho ông T1 và bà H ký tên và cũng chính bà M trực tiếp mang giấy đến khóm, phường (không có ông T1) xác nhận, chứng thực. Như vậy, cho thấy việc bà Tăng Thị H cho rằng lúc ký là ký vào tờ giấy trắng là không đúng; nội dung “Tờ ủy quyền ngày 20/12/1994” không thể hiện ý chí của bà H và ông T1, mà bà M viết theo sự hướng dẫn của người khác, việc nguyên đơn trình bày mâu thuẫn với người xác nhận và nội dung chứng thực, nên “Tờ ủy quyền ngày 20/12/1994” không đảm bảo tính khách quan, trung thực, nên không có giá trị làm chứng cứ để chứng minh.

[3.3] Trên thực tế sau khi ông T1 và bà H cho đất thì vào năm 1984 vợ chồng nguyên đơn xây dựng nhà ở không kiên cố và cũng như năm 2000 vợ chồng nguyên đơn xây dựng lại nhà ở kiên cố như hiện nay thì chỉ xây dựng ngang 4m dài hết đất, nếu đúng như nguyên đơn trình bày là ông T1 và bà H cho vợ chồng nguyên đơn ngang đến 5m thì sao không xây dựng nhà ở hết đất. Đồng thời, nếu diện tích đất tranh chấp là của nguyên đơn chỉ cho bị đơn mượn, nhưng năm 2013 bị đơn xây dựng nhà ở kiên cốnguyên đơn biết và nguyên đơn cũng nhận biết được, nếu như xây dựng nhà ở kiên cố khi muốn lấy lại đất thì không thể đập phá hoặc tháo dỡ một phần căn nhà ở để trả lại đất, nhưng nguyên đơn không ngăn cản hoặc phản đối, mà lại đồng tình với việc bị đơn xây dựng nhà và chính nguyên đơn là thợ xây nhà cho bị đơn.

[3.4] Mặt khác, các đương sự cũng thừa nhận theo theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 279297 ngày 10/05/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H diện tích đất 75,9m2 (ngang tiếp giáp đường P 12,9m), thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, là đất của ông Nguyễn Văn T1 (chết năm 1998) và bà Tăng Thị H khai phá, sử dụng và cất nhà ở từ năm 1955 và đúng hiện trạng sử dụng đất, từ khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến khi phát sinh tranh chấp cũng không ai khiếu nại. Theo biên bản (V/v xem xét, thẩm định tại chỗ) ngày 26/12/2016 thì thể hiện diện tích đất (chiều ngang tiếp giáp đường P), bà H đang quản lý sử dụng cất nhà ở kiên cố 09m và nguyên đơn đang quản lý sử dụng cất nhà ở kiên cố 04m là phù hợp với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ bà H được cấp, nên bà H chỉ có quyền định đoạt trong phạm được cấp. Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh Sóc Trăng cũng xác nhận diện tích đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà H là cấp chiều ngang tiếp giáp đường P là 12,9m (hiện bà H và nguyên đơn đang quản lý sử dụng cất nhà ở), không bao gồm 01m đất tranh chấp, vì phần 1m thuộc đất tranh chấp là đất công cộng, nếu có điều chỉnh biến động  cấp cho nguyên đơn thì cũng cấp trong phạm vi thửa 92 mà bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứ không được cấp diện tích đất tranh chấp. Đồng thời, tại phiên tòa bị đơn cũng thừa nhận 01m đất tranh chấp nằm ngoài quyền sử dụng đất bà H được cấp và hiện nay thuộc đất công. Do vậy, theo nguyên cho rằng vào năm 1984 ông Nguyễn Văn T1 và bà Tăng Thị H cho vợ chồng nguyên đơn phần đất ngang 05m, dài hết đất (theo đo đạc thực tế ngang 5m x dài 8,3m), trong đó có 01m tranh chấp là chưa đủ căn cứ để chấp nhận.

[4] Như đã phân tích, diện tích đất tranh chấp 8,30m2 (ngang 1m, dài 8,3m) là đất công cộng, không nằm trong thửa 92 và không thuộc quyền định đoạt của bà H, nên bà H không có quyền định đoạt cho người khác, nếu như nguyên đơn chứng minh được việc ông T1 và bà H cho đất bao nhiêu đi nữa thì cũng được điều chỉnh và cấp đất trong phạm vi diện tích 75,9m2 (ngang tiếp giáp đường P 12,9m), thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Theo nguyên đơn cho rằng cho bị đơn mượn cất nhà ở, nhưng bị đơn không thừa và nguyên đơn cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh việc cho bị đơn mượn đất. Diện tích đất tranh chấp không thuộc quyền sử dụng và định đoạt của nguyên đơn, nên nguyên đơn cho rằng cho bị đơn mượn cất nhà ở là không cơ sở. Do vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn tháo dỡ nhà ở trả diện tích đất tranh chấp 8,30m2 (ngang 1m, dài 8,3m) là không có cơ sở, nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét yêu cầu của nguyên đơn, về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U279297 ngày 10/5/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H, với lý do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này đã cấp bao gồm phần diện tích đất mà cha mẹ cho nguyên đơn sử dụng từ năm 1984, thì thấy rằng: diện tích 75,9m2 (ngang tiếp giáp đường P 12,9m), thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (trong đó có diện tích cho nguyên đơn) là của bà Tăng Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (chết năm 1998) khai phá sử dụng cất nhà ở từ năm 1955, tại thời điểm bà H kê khai đăng ký để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tuy trong diện tích đăng ký đã cho nguyên đơn một phần diện tích như đã nêu trên, nhưng do nguyên đơn và bà H không tranh chấp, không cung cấp thông tin về việc đã cho nguyên đơn một phần diện tích đất như hiện trạng sử dụng, giã lại đây là đất gốc của bà H, nên bà H kê khai đăng ký để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng. Đồng thời, căn cứ vào hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Tăng Thị H do UBND tỉnh Sóc Trăng cung cấp (bút lục 161 đến 171) đã thể hiện việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tăng Thị H là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật như có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất, có biên bản xác minh ranh giới, mốc giới, nguồn gốc thửa đất, có tờ khai xác định mốc thời gian sử dụng đất, có đo đạc thực tế và có thực hiện các nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng theo quy định của pháp luật, đúng đối tượng sử dụng đất và đúng diện tích hiện trạng sử dụng đất. Mặt khác, từ khi được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến khi nguyên đơn khởi kiện thì không có ai tranh chấp hay khiếu nại về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H cũng không bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi. Do đó, nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U279297 ngày 10/5/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H là không có cơ sở.

[6] Đối với yêu cầu của bị đơn, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M. Xét thấy, như đã phân tích và trình bày ở trên thì diện tích đất tranh chấp là đất công cộng và diện tích nguyên đơn đang sử dụng xây dựng nhà ở có nguồn gốc là của bà Tăng Thị H cho. Tại thời điểm ông T và bà M xác lập thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND thành phố S không tuân thủ theotheo quy định của Luật đất đai năm 2013 và theo hướng dẫn tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ, trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất (Hợp đồng theo quy định), theo khi kê khai của nguyên đơn có chiều ngang đến 05m (trong đó có 1m tranh chấp) là không đúng với thực trạng sử dụng đất, do không kiểm tra chặt chẽ các thủ tục nên UBNH thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn phần đất có chiều ngang đến 05m (trong đó có 01m tranh chấp) là cấp không đúng diện tích. Mặt khác, tại thời điểm UBND thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn thì diện tích đất cấp cho nguyên đơn (tại vị trí xây dựng nhà ở, ngang 04m) nằm trong diện tích 75,9m2, thuộc thửa 92, tờ bản đồ số 30, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng mà UBND tỉnh Sóc Trăng đã cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Tăng Thị H và phần đất tranh chấp do bị đơn đang quản lý, sử dụng là đất công. Đúng ra, trước khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn thì phải tiến hành các thủ tục thu hồi, hủy bỏ hoặc điều chỉnh biến động đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H theo quy định của pháp luật về đất đai, nhưng  UBND thành phố S không thực hiện đúng theo quy định mà lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn, trong khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Tăng Thị H vẫn còn tồn tại và có hiệu lực pháp luật. Việc UBND thành phố S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nguyên đơn là không đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định và không đúng diện tích, nên cần phải hủy để tiến hành cấp lại cho đúng trình tự, thủ tục theo quy định và đúng hiện trạng diện tích sử dụng. Do vậy, theo bị đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho nguyên đơn là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Như đã phân tích trên, theo yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U279297 ngày10/5/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H) của nguyên đơn là không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận; yêu cầu hủy quyết định cá biệt (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho nguyên đơn) của bị đơn là có căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7.1] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt của nguyên đơn; chấp nhận yêu cầu hủy quyết định cá biệt của bị đơn là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7.2] Về án phí sơ thẩm nguyên đơn phải chịu án phí không có giá ngạch là 200.000đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án; khoản 1 Điều 17 Nghị quyết số 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/06/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và khoản 1 Điều 41 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7.3] Chi phí thẩm định đo đạc và định giá tài sản 1.450.000đồng nguyên đơn phải chịu, nguyên đơn đã nộp tạm ứng đủ số tiền, nên nguyên đơn đã nộp xong chi phí thẩm định đo đạc và định giá tài sản.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 37, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 147, Điều 165, Điều 235, khoản 1 Điều 244 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.

Áp dụng Điều 166 Bộ luật dân sự 2015; khoản 3 Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án; khoản 1 Điều 17 Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP ngày 13/06/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu. Nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M về việc yêu cầu Tòa án buộc bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T tháo dỡ nhà ở giao trả diện tích đất tranh chấp 8,30m2 (01m x 8,3m), thuộc thửa 625, tờ bản đồ số 20, tọa lạc đường P, khóm X, phường Y, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng  và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 279297 ngày 10/05/2002 của UBND tỉnh Sóc Trăng cấp cho hộ bà Tăng Thị H. Vị trí và tứ cận thực tế như sau:

- Hướng Đông giáp với phần đất của ông Nguyễn Văn T (vách tường nhà ông T), có số đo 8,3m (lộ giới 4,4m);

- Hướng Tây giáp với phần đất công cộng (do bà Thu đang sử dụng), có số đo8,30m (lộ giới 4,4m);

 - Hướng Nam giáp với mương nước, có số đo 01m;

- Hướng Bắc giáp với đường P, có số đo 01m; (có só đồ đo vẽ kèm theo)

2/- Chấp nhận yêu cầu của bị đơn Nguyễn Thị Tuyết T về việc yêu cầu hủy quyết định cá biệt (hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M).

Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 944071 ngày 20/11/2014 của UBND thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M để tiến hành cấp lại cho đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai và đúng diện tích.

3/- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M phải chịu200.000đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 480.000đồng theo biên lai thu số 007500 ngày 28/10/2015 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T và bà Giang Xuân M số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm còn lại là 280.000đồng.

5/- Chi phí thẩm định đo đạc và định giá tài sản: Nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M phải chịu số tiền 1.450.000đồng, số tiền này nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M đã nộp tạm ứng đủ xong, nên nguyên đơn Nguyễn Văn T và Giang Xuân M đã nộp đủ chi phí thẩm định đo đạc và định giá tài sản.

Báo các đương sự biết, án xử sơ thẩm công khai có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại UBND cấp xã nơi cư trú) để xin Tòa án cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu  Thi  hành án, tự nguyện Thi  hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

516
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2017/DS-ST ngày 24/08/2017 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở

Số hiệu:29/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về