Bản án 29/2018/HSST ngày 11/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 11/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2018/TLST – HS ngày 14 tháng 3 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2018/QĐXXST ngày 27 tháng 3 năm 2018 đối vói bị cáo:

Đỗ Quang T, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1990

Nơi cư trú: thôn Đ, xã T1, huyện T, tỉnh Thái Bình

Nghề nghiệp: Lao động tự do;  Trình độ văn hóa: 9/12;     Dân tộc: Kinh

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Đỗ Văn K (đã chết) con bà Vũ Thị N, sinh năm 1968.

Có vợ là Vy Thị P, sinh năm 1989, bị cáo có 02 con (Con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014)

Tiền án: Không; Tiền sự: Không

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 9/12. Tháng 2 năm 2009 tham gia quân đội tại Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 2, Sư đoàn 395, quân khu 3, đến 20/7/2010 xuất ngũ về địa P lao động tự do.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/10/2017 đến nay. (Có mặt )

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Quang T

Luật sư Phạm Xuân Thủy – Công ty Luật Đông Bắc, thành phố Hà Nội.

Người bị hại:

Ông: Đỗ Văn K, sinh năm 1967 ( đã chết )

( Có mặt )

Trú tại: thôn Đoài Thịnh, xã Thái Thịnh, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Người đại diện hợp pháp của người bị hại

Bà: Phạm Thị H, sinh năm 1934 ( là mẹ đẻ của ông Đỗ Văn K ) Bà: Vũ Thị N , sinh năm 1968 ( là vợ của ông Đỗ Văn K)

Anh: Đỗ Văn N, sinh năm 1994 ( là con của ông Đỗ Văn K)

Đều trú tại: thôn Đ, xã T1, huyện T, tỉnh Thái Bình

( Đều có mặt )

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Chị: Vy Thị P, sinh năm 1989

Trú tại: thôn Đ, xã T1, huyện T, tỉnh Thái Bình

(Có mặt)

Người làm chứng :

Anh : Huỳnh H, sinh năm 1990

Anh: Nguyễn Văn S 1, sinh năm 1972

Anh: Nguyễn Văn S 2. Sinh năm 1997

Anh: Nguyễn Văn S 3, sinh năm 1972

Đều trú tại: xã C, huyện P, tỉnh Bình Định  (Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia đình ông Đỗ Văn K và vợ là bà Vũ Thị N có cho các anh H, anh S 1, anh S 2, anh S 3 đề trú tại huyện C, tỉnh Bình Định ở nhờ để đi gặt lúa thuê. Trong sinh hoạt hàng ngày ông K thường xuyên uống rượu say rồi đánh chửi vợ con. Khoảng 19 giờ ngày 23 tháng 10 năm 2017, tại gia đình nhà ông K, sau khi ăn cơm xong các anh H, anh S 2, anh S 1, anh S 3 nằm võng ở hiên nhà trên. Tại nhà trên lúc này còn có Đỗ Quang T và vợ là Vy Thị P cùng hai con đang sắp cơm ăn. Trong lúc bà N đang thu dọn đồ ở sân thì giữa bà N và ông K xảy ra mâu thuẫn. Ông K dùng 01 đoạn kim loại đuổi đánh bà N . Bà N sợ bỏ chạy lên nhà trên, ông K không đuổi nữa mà vào nhà N ng đóng cửa lại, thấy vậy bà N đi xuống nhà N ng mở cửa nhưng không mở được, bà N dùng chân đạp vào cửa và chửi “ Đ.. mẹ mày mở cửa cho tao ngủ, mày đừng sống kiểu thế ” rồi đi ra sân. Khi bà N  đi được khoảng 02 mét thì ông K mở của dùng thanh kim loại vụt một cái trúng người làm bà N ngã ra sân. Bà N liền kêu “ Chúng mày ơi, bố mày đánh chết tao rồi ”. Lúc này Đỗ Quang T đang ở trên nhà trên nghe thấy vậy đi xuống sân nhìn thấy bà N đang nằm sân kêu đau còn ông K đang đứng sát cửa nhà N ng, biết ông K uống rượu say đánh bà N nên T bức xúc đi nhanh đến chỗ ông K dùng chân phải đạp một cái trúng vào mạn sườn trái làm ông K ngã ngửa, đầu đập xuống nền nhà N ng rồi bất tỉnh. T liền đỡ ông K và cùng mọi người đưa ông K đi cấp cứu, do vết thương quá nặng đến 09 giờ ngày 24 tháng 10 năm 2017 ông K đã tử vong.

Tại bản kết luật giám định pháp y về tử thi số 200/PY/2017/TT ngày 26/10/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Bình kết luận: Nguyên nhân chết của ông Đỗ Văn K là do chấn thương sọ não.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Quang T đã thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 18/CT - VKS ngày 12 tháng 3 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố Đỗ Quang T về tội " Cố ý gây thương tích " theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 3 Điều 104, Điều 33, Điều 45, điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ Luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Đỗ Quang T từ 03 năm đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận về bồi thường giữa bị cáo Đỗ Quang T và đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Vũ Thị N  và  đề nghị xử lý vật chứng của vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng vắng mặt được công bố tại phiên tòa

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan điều tra huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Đỗ Quang T đã thừa nhận do bực Tc vì bố đánh mẹ nên bị cáo đã dùng chân phải đạp 01 cái vào mạn sườn trái làm ông Đỗ Văn K là bố đẻ của mình ngã ngửa đập đầu xuống nền nhà bằng xi măng cát, làm chấn thương mạn sườn trái và vùng đầu được gia đình đưa đi cấp cứu nhưng không qua khỏi đã tử vong.

[3]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với những chứng cứ sau:

Sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi, Biên bản thực nghiệm điều tra và các lời khai của những người làm chứng, người đại diện hợp pháp của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ kH có trong hồ sơ vụ án.

[3]. Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Đỗ Quang T trình bày bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 19 giờ ngày 23 tháng 10 năm 2017, tại gia đình nhà ông Đỗ Văn K, do bức xúc trong việc ông K đánh bà Vũ Thị N , bị cáo Đỗ Quang T đã có hành vi dùng chân phải đạp 01 cái vào mạn sườn trái ông K làm ông ngã ngửa đập đầu xuống nền nhà bằng xi măng, chấn thương mạn sườn trái và vùng đầu, phải đi cấp cứu tại bệnh viện. Đến khoảng 09 giờ ngày 24 tháng 10 năm 2017 ông K tử vong do chấn thương sọ não.

[5]. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương tích" quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật

Điều 104. Tội cố ý gây thương tích

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người kH mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11 % nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

……………………………………………………………………………………….

3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người kH mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ đến 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt từ từ năm năm đến mười lăm năm

[6]. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

[7]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người kH được pháp luật bảo vệ. Do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[8]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, trong quá trình chuẩn bị xét xử bà Vũ Thị N  là người đại diện hợp pháp của người bị hại và được ủy quyền có đơn đề nghị bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng và chị Vy Thị P là vợ bị cáo đã bồi thường xong cho bà N . Trong vụ án này người bị hại là ông K cũng có lỗi trong việc thường xuyên uống rượu đánh bà N nên bị cáo đã bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của ông K gây ra. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú, bị cáo có thời gian 02 năm tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, tại phiên tòa những người đại diện hợp pháp của người bị hại đều đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, đ, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hội đồng xử xét thấy cần thiết áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[9]. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận về bồi thường giữa bị cáo Đỗ Quang T và đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Vũ Thị N .

[10]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã quản lý 01 áo sơ mi dài tay màu nâu, 01 quần dài, 01 ống kim loại, 01 thanh kim loại hình vuông, 02 tang kéo thóc. Xét thấy đây là vật chứng không còn giá trị cần tịch thu tiêu hủy.

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Đỗ Quang T phạm tội "Cố ý gây thương tích"

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 3 Điều 104, Điều 33, Điều 45, điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Đỗ Quang T 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2017.

3.Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo T và người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bị cáo Đỗ Quang T bồi thường cho đại diện hợp pháp của người bị hại số tiền 5.000.000 đồng      

( Năm triệu đồng ). Chị Vy Thị P là vợ bị cáo đã bồi thường xong cho cho bà Vũ Thị N

4.Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu huỷ 01 áo sơ mi dài tay màu nâu, 01 quần dài vải tổng hợp màu xanh, 01 ống kim loại hình tròn, 01 ống kim loại hình hộp vuông, 02 tang kéo thóc ( Tất cả vật chứng như trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữ cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 14 tháng 3 năm 2018).

5. Về án phí: Áp dụng khoản khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Quang T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, những đại diện hợp pháp của người bị hại, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 11/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về