Bản án 29/2018/HSST ngày 24/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 24/05/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ  thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/2018/TLST-HS ngày 18/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2018/QĐXXST-HS ngày 11/5/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: BÙI NGỌC Đ, sinh năm 1982 tại huyện CL, tỉnh Tiền Giang; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Ấp BT, xã BP, huyện CL, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; con ông: Bùi Minh H, sinh năm: 1954; Con bà: Đoàn Thị T, sinh năm: 1954; vợ: Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm: 1986, có 02 người con, lớn 10 tuổi, nhỏ 05 tuổi; Tiền án; tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L (chết):

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1969. Trú tại: Tổ 49, KV 5, P. QT, TP. QNh, Bình Định.

2. Chị Trương Thị Thu Q, sinh năm: 1987. Trú tại: Tổ 49, KV 5, P. QT, TP. QNh, Bình Định.

3. Chị Trương Thị T, sinh năm: 1990. Trú tại: 1/5 TBT, P. LL, TP. QNh, Bình Định. 

Bà L, chị T ủy quyền cho chị Q tham gia tố tụng (Theo văn bản ủy quyền ngày 02 tháng 12 năm 2017) “chị Q có mặt”.

- Bị đơn dân sự: Anh Nguyễn Thanh D, sinh năm: 1969 “vắng mặt”. Trú tại: 20 NVL, phường 1, huyện CL, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng: Anh Võ Anh A, sinh năm: 1987 “vắng mặt”. Trú tại: 24/31 đường BC, phường 4, huyện CL, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 10/11/2017, Bùi Ngọc Đ (có giấy phép lái xe hạng FC) cùng với anh Võ Anh A được anh Nguyễn Thanh D giao điều khiển xe ô tô tải biển số 63C-043.18 chở 10,690 tấn trái cây và 02 tấn gạo đi từ Tiền Giang ra Bình Định để giao hàng. Đến khoảng 02 giờ 45 phút ngày 11/11/2017, Đ điều khiển xe từ Quốc lộ 1D rẽ phải vào ngã ba đường VL - CLV, TP. QNh để vào cây xăng “PL” đổ dầu (đường có biển báo cấm xe ô tô tải từ 10 tấn trở lên). Khi xe vào ngã ba thì bị cáo phát hiện xe mô tô 77F5-4220 do anh Trương Văn L điều khiển chạy từ đường CLV (hướng từ phía bên phải xe Đ) vào nơi giao nhau. Do không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ nên Đ đã để phía trước bên trái đầu xe ô tô tông vào phía bên trái thân xe mô tô của anh L, hậu quả làm anh Trương Văn L bị thương nặng, được đưa đến cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định cấp cứu và chết lúc 08 giờ 40 phút cùng ngày.

Hiện trường vụ tai nạn được mô tả bằng sơ đồ, biên bản khám nghiệm hiện trường kèm theo hồ sơ vụ án. Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 365 ngày 22/11/2017 kết luận Trương Văn L chết do: Chấn thương sọ não vỡ sọ phòi tổ chức não.

Bị cáo Bùi Ngọc Đ cùng anh Nguyễn Thanh D đã bồi thường cho gia đình bị hại 111.200.000 đồng; Những người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L đã có đơn bãi nại, xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKSQN ngày 16/4/2018, Viện kiểm sát nhân dân Tp. Quy Nhơn truy tố bị cáo Bùi Ngọc Đ về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999(sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Bùi Ngọc Đ về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng FC số 80009900020 mang tên Bùi Ngọc Đ, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L (chết) có ý kiến đề nghị HĐXX xét miễn trách nhiệm hình sự hoặc cho bị cáo được hưởng án treo vì gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế, con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, bị đơn dân sự không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Bùi Ngọc Đ là lái xe chuyên nghiệp nên phải biết khi tham gia giao thông phải chấp hành nghiêm Luật giao thông đường bộ, quan sát kỹ lòng đường, chạy đúng tốc độ, chấp hành các biển báo để đảm bảo an toàn cho người tham gia giao thông nhưng bị cáo đã không chấp hành đầy đủ, thiếu chú ý quan sát nên khi điều khiển xe ô tô tải biển số 63C-043.18 rẽ vào ngã ba đường CLV – VL là đường cấm xe ô tô tải từ 10 tấn trở lên, bị cáo đã không làm chủ tốc độ, không nhường đường cho ông Trương Văn L đang điều khiển xe mô tô 77F5- 4220 đi từ hướng đường CLV đang vào ngã ba nên đã để phía bên trái đầu xe ô tô tông vào phía bên trái thân xe mô tô, hậu quả làm cho ông Trương Văn L bị thương nặng, sau đó chết do chấn thương sọ não vỡ sọ phòi tổ chức não. Bị cáo đã vi phạm Khoản 1 Điều 11, Khoản 1 Điều 12, Khoản 1 Điều 24 của Luật giao thông đường bộ gây ra hậu quả làm chết một người nên bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tội phạm vào hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 202 của BLHS.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, tài sản của người khác và trật tự trên lĩnh vực giao thông đường bộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chung tại địa phương nên cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại, bị hại cũng có lỗi nhẹ, những người đại diện hợp pháp của bị hại đã có đơn bãi nại, xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1 điều 46, khoản 2 điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, HĐXX nghĩ nên xử bị cáo với một mức án có lý có tình, không cần thiết cách ly ra khỏi xã hội, bị cáo cũng có thể tự cải tạo tốt.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 của Bộ luật hình sự 1999 thì bị cáo còn có thể bị cấm hành nghề từ một năm đến năm năm. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về phần bồi thường thiệt hại: Bị cáo điều khiển xe ô tô tải biển số 63C-043.18 của anh Nguyễn Thanh D gây tai nạn giao thông nên anh D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L. Anh Nguyễn Thanh D và bị cáo đã bồi thường tổng cộng 111.200.000 đồng cho những người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L. Tại phiên tòa hôm nay, chị Trương Thị Thu Q là người đại diện hợp pháp đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của bị hại Trương Văn L không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo gồm có: 01 giấy phép lái xe hạng FC số 80009900020 mang tên Bùi Ngọc Đ, HĐXX không cấm hành nghề lái xe đối với bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Ngọc Đ phạm tội: "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ". 

Áp dụng khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc Đ 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/5/2018).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã BP, huyện CL, tỉnh Tiền Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng FC số 80009900020 mang tên Bùi Ngọc Đ, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 04 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định)

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn dân sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

516
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 24/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về