Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - NINH BÌNH

BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 67/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/3/2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/6/2019, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: chị Phạm Thị Tr, sinh năm 1979

- Bị đơn: anh Đỗ Văn C, sinh năm 1978

Cùng trú tại: Thôn Sơn C, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 3 năm 2019 và bản tự khai, nguyên đơn chị Phạm Thị Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Đỗ Văn C kết hôn với nhau và có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã Đ vào ngày 19/10/2004 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị sinh sống tại Thôn Sơn C, xã Gi. Hai vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh C chơi bời, không chịu tu chí làm ăn. Mâu thuẫn đỉnh điểm là vào mùng 3 tết âm lịch năm 2019 do mâu thuẫn anh C đã đánh chị và vác dao đe dọa chị. Anh chị ly thân từ đó đến nay. Chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh C trầmTr, không còn tình cảm vợ chồng nên chị xin ly hôn với anh C để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị xác định chị và anh C có 02 con chung là các cháu Đỗ PhươngTr sinh 05/9/2005 và Đỗ Thị Thảo Ng sinh 10/10/2014. Hiện nay cháuTr đang ở với anh C còn cháu Ng đang ở với chị. Nguyện vọng của chị sau ly hôn là xin tiếp tục nuôi cháu Ng còn để cho anh C nuôi cháuTr.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Ngày 26/3/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của chị Phạm Thị Tr. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Đối với anh Đỗ Văn C mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án chị Tr xin ly hôn với anh, nhưng anh C vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Theo biên bản xác minh của Tòa án với Ủy ban nhân dân xã Gi thì hiện nay anh C vẫn có hộ khẩu và đang sinh sống tại Thôn Sơn C, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Tại văn bản lấy ý kiến cháu Đỗ PhươngTr xin ở với bố là anh Đỗ Văn C.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh C, xin tiếp tục nuôi cháu Đỗ Thị Thảo Ng, còn để anh C tiếp tục nuôi cháu Đỗ VươngTr.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: đề nghị HĐXX:

- Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Đề nghị tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Tr. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị Tr và anh Đỗ Văn C.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Đỗ Thị Thảo Ng sinh 10/10/2014, hiện cháu đang ở với chị Tr cho chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Giao cháu Đỗ PhươngTr sinh 05/9/2005 hiện đang ở với anh C cho anh C tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí ly hôn: Chị Phạm Thị Tr phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thôn Sơn C, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Tr và anh C là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống hạnh phúc với nhau được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh C chơi bời, không chịu tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Việc hai bên ly thân gần 1 năm nay chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầmTr, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tr với anh C là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung: Nguyện vọng của chị Tr được tiếp tục nuôi cháu Ng, còn để anh C tiếp tục nuôi cháuTr, Hội đồng xét xử thấy: Cháu Ng còn nhỏ lại là con gái, cháuTr hiện đang ở với anh C và có nguyện vọng xin tiếp tục ở với bố. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của hai cháu nên giao cháu Ng cho chị Tr và cháuTr cho anh C tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Tr không có yêu cầu và mỗi người đều nuôi 1 cháu nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Tr phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 

- Căn cứ các điều 147, 227, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Tr. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị Tr và anh Đỗ Văn C.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Đỗ Thị Thảo Ng sinh 10/10/2014, hiện cháu đang ở với chị Tr cho chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Giao cháu Đỗ Phương Tr sinh 05/9/2005 hiện đang ở với anh C cho anh C tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: chị Phạm Thị Tr phải nộp là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí chị Tr đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000083 ngày 26/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: chị Tr và anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về