Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 24 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1196/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2019/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1983; thường trú: Thôn M, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định; tạm trú: 175/12 khu phố Đ, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thành N, sinh năm 1985; thường trú: Thôn L, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định; tạm trú: 77/9 đường V, khu phố T, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Nguyễn Thành N sau thời gian tự nguyện tìm hiểu nhau khoảng 02 năm thì tiến đến hôn nhân sống chung với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện P, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 35, quyển số 01/2010, cấp ngày 02/5/2010. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại D, Bình Dương cho đến nay. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bị đơn có quan hệ với người phụ nữ khác ở bên ngoài, thường xuyên đánh đập nguyên đơn. Vì con còn nhỏ nên nguyên đơn cố chịu đựng và tạo điều kiện cho bị đơn sửa đổi nhưng không có kết quả. Nguyên đơn không thể chịu đựng được nữa nên đã ly thân khoảng 02 năm nay. Nguyên đơn xác định không còn tình cảm với bị đơn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung, cháu Nguyễn Thị Anh T, sinh ngày 21/8/2012, hiện nay đang ở cùng với mẹ nên nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị L đang làm công nhân hàng tháng có thu thập ổn định, còn anh N không rõ đang làm công việc gì, thu nhập bao nhiêu. Ngày 05/4/2019 chị L nộp đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Lời khai của bị đơn anh Nguyễn Thành N trình bày:

Bị đơn thống nhất lời trình bày của nguyên đơn về thời gian tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, đăng ký kết hôn, thời gian phát sinh mâu thuẫn, thời gian sống ly thân. Quá trình sống chung vợ chồng mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm. Nay bị đơn xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn với nguyên đơn.

Về con chung: Vợ chồng có một người con chung hiện nay đang sống chung với mẹ như nguyên đơn trình bày, bị đơn đồng ý giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con như ý kiến của nguyên đơn.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình sống chung vợ phát sinh mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó việc nguyên đơn yêu cầu ly và giải quyết về con chung; yêu cầu của nguyên đơn được bị đơn thống nhất nên có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng cả hai người đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Nguyễn Thành N tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện P, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 35/2010, cấp ngày 02/5/2010 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[2.2] Nguyên đơn xác định quá trình chung sống với bị đơn vợ chồng không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn do bị đơn có quan hệ với người phụ nữ khác ở bên ngoài, thường xuyên đánh vợ, cuộc sống hôn nhân giữa hai vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, làm cho không khí gia đình ngột ngạt nên nguyên đơn không còn tình cảm yêu thương bị đơn. Bị đơn không thống nhất toàn bộ lời trình bày của nguyên đơn về vấn đề mâu thuẫn. Tuy nhiên, bị đơn thừa nhận nhiều năm nay vợ chồng sống không còn hạnh phúc, không còn tình cảm nên đã ly thân được 02 năm, cả hai bên đều không muốn hàn gắn. Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Như vậy việc nguyên đơn và bị đơn không muốn hòa giải đoàn tụ, để hàn gắn tình cảm, cho thấy tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn và bị đơn đồng ý, tuy nhiên các đương sự không tham gia phiên tòa để Tòa án xem xét ghi nhận sự thỏa thuận thống nhất thuận tình ly hôn giữa các đương sự. Vì vậy Tòa án có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về con chung: Chị Lê Thị L và anh Nguyễn Thành N có một con chung, cháu Nguyễn Thị Anh T, sinh ngày 21/8/2012. Theo đơn khởi kiện nguyên đơn xác định con chung do mẹ đang nuôi dưỡng nên yêu cầu tiếp tục nuôi và yêu cầu bị đơn cấp dưỡng 2.000.000đồng/tháng. Tuy nhiên ngày 05/4/2019 chị L nộp đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về việc không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được bị đơn thống nhất. Xét về điều kiện chỗ ở và khả năng chăm sóc con chung của nguyên đơn và bị đơn thấy rằng: Bị đơn đang làm công nhân có thu thập ổn định, có khả năng đưa rước con đi học. Cháu Nguyễn Thị Anh T là bé gái, hiện đang sống chung với nguyên đơn, được nuôi dưỡng và phát triển tốt. Do đó để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung cần giao cháu Nguyễn Thị Anh T cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[2.5] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

[2.6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 58 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị L.

Về hôn nhân: Chị Lê Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Thành N (Theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 35/2010, cấp ngày 02/5/2010 của UBND xã C, huyện P, tỉnh Bình Định).

Về con chung: Anh Nguyễn Thành N giao người con chung tên Nguyễn Thị Anh T, sinh ngày 21/8/2012 cho chị Lê Thị L tiếp tục nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau ly hôn, chị Lê Thị L và anh Nguyễn Thành N có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Nguyễn Thành N lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Lê Thị L nuôi con thì chị L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh N theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Lê Thị L không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí về ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0020476 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:29/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về