Bản án 301/2019/HS-PT ngày 09/07/2019 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 301/2019/HS-PT NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 215/2019/HSPT ngày 23 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Huỳnh Trần Trọng P và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2019/HSST ngày 16-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Huỳnh Trần Trọng P, sinh năm 1974 tại Đăk Lăk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 5, phường P1, quận P2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số C4/10C ấp 3, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; con ông Huỳnh Trọng P3 và bà Trần Thị Kim P4; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 01 người con (sinh năm 2004); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/10/2018, đến ngày 31/01/2019 được thay đổi biện pháp tạm giam thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa).

2. Trần Thanh T (tên gọi khác: T1); sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường T1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: phường P1, quận P2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm hồ; trình độ học vấn: 01/12; giới tính: Nam; con ông Trần Thanh T3 và bà Ngô Ngọc T4; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 01 người con (sinh năm 2012); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 31/01/2019 được thay đổi biện pháp tạm giam thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

3. Nguyễn Hùng K, sinh năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã K1, huyện K2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nam; con ông Nguyễn H K3 và bà Nguyễn Thị K4; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 02 người con (sinh năm 2007 và năm 2016); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

4. Lại Quốc H, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã H1, huyện H2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; con ông Lại Văn H3 và bà Phạm Thị H4; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019 được thay đổi biện pháp tạm giam thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

5. Nguyễn Đình D, sinh năm 1984 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã D1, huyện D2, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: phường D3, quận D4, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Đình D5 và bà Lý Thị D6; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 02 người con (sinh năm 2013 và năm 2015); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

6. Phạm Nhật L, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã L1, huyện L2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn L3 và bà Thái Thị L4; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 01 người con (sinh năm 2015); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

7. Nguyễn Quốc M, sinh năm 1988 tại Hà Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã M1, huyện M2, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: phường M1, quận M2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn M3 và bà Phạm Thị M4; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 02 người con (sinh năm 2000 và năm 2016); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019 được thay đổi biện pháp tạm giam thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

8. Lê Đình X, sinh năm 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường X1, Quận X2, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: xã X3, huyện X4, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; giới tính: Nam; con ông Lê Văn X5 (chết) và bà Trần Thị Minh X6; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ và 01 người con (sinh năm 2003); tiền án: Không; tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

9. Nguyễn Minh R, sinh năm 1985 tại Kiên Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường R1, quận R2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn R3 (chết năm 2018) và bà Lê Thị R4; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Hồng O, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, làm việc tại Công ty Luật TNHH O1 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh R. (Luật sư có mặt tại phiên tòa).

- Các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị: Hồ Văn C, Ngô Quang A, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn Đ, Huỳnh Xuân S, Nguyễn Phước V, Trần Thanh U và Nguyễn Văn Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 45 phút ngày 21/10/2018, tại bãi đất trống thuộc xã V1, huyện V2, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an xã Vĩnh Lộc B tiến hành kiểm tra, phát hiện Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1) đang tổ chức cho các con bạc gồm: Lại Quốc H, Nguyễn Đình D, Nguyễn Văn Q, Trần Thanh U, Nguyễn Minh R, Nguyễn Văn B, Hứa Văn N, Lê Đình X, Nguyễn Phước V, Nguyễn Quốc M đá gà ăn tiền để thu tiền xâu nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, công an thu giữ tại hiện trường 02 con gà đá, 02 cặp cựa gà, 01 cái cân, 10 cuộn băng keo.

Qua lời khai của P, T (T1) và những người bị bắt quả tang, Công an xã Vĩnh Lộc B đã mời các con bạc gồm Hồ Văn C, Phạm Nhật L, Ngô Quang E, Nguyễn Văn B, Huỳnh Công Ê, Huỳnh Xuân S, Trần Văn Đ về trụ sở làm việc, lập hồ sơ ban đầu rồi chuyển đến Công an huyện Bình Chánh xử lý.

Quá trình điều tra, các đối tượng đã khai nhận:

Từ cuối tháng 9/2018, Huỳnh Trần Trọng P bắt đầu tổ chức cho các con bạc đá gà ăn tiền tại bãi đất trống thuộc xã V1, huyện V2 để lấy tiền xâu. P làm trọng tài cáp độ đá chính trong sổ và đá giao hữu cho các con bạc rồi phân định thắng thua. Nếu các con bạc đá trong sổ thì lấy tiền xâu 10% (cứ 1.000.000 đồng bên thắng xâu 100.000 đồng), đá giao hữu thì lấy tiền xâu 5% (1.000.000 đồng lấy xâu 50.000 đồng). Trong ngày 21/10/2018, P tổ chức cho các con bạc đá gà ăn tiền được 02 cặp gà, cụ thể như sau:

Cặp gà thứ nhất: là giữa con gà Bướm và con gà Que, đá trong sổ 3.000.000 đồng và giao hữu 5.000.000 đồng (đá đồng), P làm trọng tài, các con bạc tham gia độ gà này gồm có:

+ Bên gà Bướm có Hồ Văn C, Ngô Quang E, Nguyễn Hùng K, Phạm Nhật L, Lại Quốc H và Nguyễn Văn B tham gia cá cược với tổng số tiền là 8.000.000 đồng.

+ Bên gà Que có Trần Thanh U, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Đình D tham gia với tổng số tiền là 8.000.000 đồng.

Ngoài ra còn có các con bạc tham gia đá hàng xáo (không thông qua trọng tài) gồm: Huỳnh Công Ê, Trần Văn B, Nguyễn Quốc M với một số đối tượng không rõ lai lịch.

Kết quả gà Que thắng, Huỳnh Trần Trọng P thu tiền xâu được 500.000 đồng.

 Cặp gà thứ hai: giữa con gà Điều mồng lá và con gà Điều mồng ngắn, đá trong sổ 3.000.000 đồng và đá giao hữu 3.000.000 đồng (đá đồng), độ gà này P nhờ T (T1) làm trọng tài, các con bạc tham gia độ gà này gồm:

+ Bên gà Điều mồng lá: có Nguyễn Văn Đ, Lại Quốc H, Huỳnh Xuân S, Nguyễn Phước V, Nguyễn Quốc M và Nguyễn Hùng K tham gia với số tiền 6.000.000 đồng.

+ Bên gà Điều mồng ngắn: có Nguyễn Văn Q, Trần Thanh U, Nguyễn Đình D, Lê Đình X và Nguyễn Minh R tham gia với số tiền 6.000.000 đồng.

Ngoài ra, còn có Hứa Văn N tham gia đá hàng xáo với 01 người thanh niên chưa rõ lai lịch.

Sau khi cáp độ xong, hai bên băng cựa và thả gà, nhưng chưa phân định thắng thua thì bị Công an xã Vĩnh Lộc B bắt quả tang.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2019/HSST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Trần Trọng P;

Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Thanh T (T1);

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Hùng K;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lại Quốc H;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phạm Nhật L;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Quốc M;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Đình D;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lê Đình X;

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Minh R;

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1) phạm tội “Tổ chức đánh bạc”;

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn H K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Nguyễn Đình D, Lê Đình X và Nguyễn Minh R phạm tội “Đánh bạc”;

1/ Xử phạt bị cáo Huỳnh Trần Trọng P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 31/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

2/ Xử phạt bị cáo Trần Thanh T (T1) 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 31/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

3/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng K 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

4/ Xử phạt bị cáo Lại Quốc H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

5/ Xử phạt bị cáo Phạm Nhật L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

6/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

7/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

8/ Xử phạt bị cáo Lê Đình X 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

9/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh R 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn xử phạt Trần Thanh U 01 năm 03 tháng tù, Nguyễn Thanh Q 01 năm 06 tháng tù, Nguyễn Văn B 06 tháng tù, Ngô Quang E 04 tháng 24 ngày tù, Huỳnh Xuân S 04 tháng 28 ngày tù, Hồ Văn C 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, Nguyễn Văn Đ 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và Nguyễn Phước V 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo cùng về tội “Đánh bạc”. Đồng thời, bản án cũng tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16/4/2019 Tòa án xét xử sơ thẩm, đến các ngày 24, 25 và 26/4/2019, các bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1) có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; các bị cáo Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Lê Đình X có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo; bị cáo Nguyễn Đình D có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo hoặc chuyển hình phạt tù thành phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ; bị cáo Nguyễn Minh R kháng cáo xin chuyển hình phạt chính là phạt tù sang hình phạt là phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ hoặc cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Tất cả các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của các bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: bị cáo Huỳnh Trần Trọng P đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm đúng quy định của pháp luật, việc bị cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm không vì lý do bất khả kháng hay do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vắng mặt bị cáo. Sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, riêng đối với bị cáo Trần Đình D có gia đình thuộc trường hợp có công với cách mạng, ông nội, ông ngoại của bị cáo tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, huy chương kháng chiến và cha bị cáo tham gia lực lượng quân đội tại chiến trường Tây Nam (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã D1, huyện D2, Thành phố Hà Nội ngày 15/5/2019) và tại phiên tòa bị cáo chứng minh bản thân bị cáo có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành hình phạt tiền nên đề nghị chuyển hình phạt tù thành phạt tiền đối với bị cáo D với số tiền phạt từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

- Luật sư Nguyễn Hồng O bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh R không tranh luận về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo, Luật sư O trình bày thêm về các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo R là: bị cáo R chỉ tham gia đánh bạc với số tiền nhỏ là 1.000.000 đồng từ bị cáo khác chia lại chứ không phải trực tiếp tham gia cá độ; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính nuôi mẹ già. Từ đó, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo R mà chuyển sang hình phạt khác là phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về việc giải quyết vụ án, Luật sư cũng giữ nguyên quan điểm bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Đối với Trần Huỳnh Trọng P đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm hợp lệ nhưng bị cáo P vẫn vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của bị cáo P không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với bị cáo P theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

Huỳnh Trần Trọng P và Trần Thanh T (T1) đã có hành vi tổ chức cho các đối tượng đá gà ăn tiền để thu tiền xâu là 10% trên số tiền đá gà trong sổ và 5% trên số tiền đá gà giao hữu. Trong ngày 21/10/2018, tại bãi đất trống thuộc xã V1, huyện V2, Thành phố Hồ Chí Minh, P và T (T1) đã tổ chức cho trên 10 đối tượng đá gà ăn tiền với 02 cặp gà (cặp gà thứ nhất với số tiền đá là 16.000.000 đồng và cặp gà thứ hai với số tiền đá là 12.000.000 đồng). Cặp gà thứ nhất đá xong, P thu tiền xâu được 500.000 đồng và khi đang thả cặp gà thứ hai thì bị công an bắt quả tang. Trong những đối tượng đá gà ăn tiền bị truy tố và xét xử về tội “Đánh bạc” thì có Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Lê Đình X, Nguyễn Đình D và Nguyễn Minh R tham gia đá gà ăn tiền như đã nêu trên.

Với hành vi nêu trên của các bị cáo, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1) về tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và xét xử các bị cáo Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Nguyễn Đình D, Lê Đình X và Nguyễn Minh R về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, vào các ngày 24, 25 và 26/4/2019 các bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1), Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Nguyễn Đình D, Lê Đình X và Nguyễn Minh R có đơn kháng cáo. Xét thấy các đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ.

[3] Xét nội dung kháng cáo:

Bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1) đã có hành vi tổ chức trên 10 đối tượng đá gà ăn tiền và thu tiền xâu là 10% trên số tiền đá gà trong sổ và 5% trên số tiền đá gà giao hữu. Và các bị cáo Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật L, Nguyễn Quốc M, Lê Đình X, Nguyễn Đình D và Nguyễn Minh R có hành vi cá cược đá gà ăn thua bằng tiền. Như vậy, hành vi của các bị cáo nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, an toàn xã hội nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của các bị cáo.

Trong vụ án này, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo H, K, X, R phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; các bị cáo K, H và D thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên. Và các tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng đối với các bị cáo.

Quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo P, T (T1), K, H không xuất trình tình tiết gì mới để xem xét về yêu cầu kháng cáo của các bị cáo; còn bị cáo H xuất trình tình tiết bị cáo có 02 cậu ruột là Liệt sĩ, bị cáo K trình bày có mẹ đang bị bệnh và bị cáo X cũng trình bày có mẹ già và vợ bị bệnh. Tuy nhiên, xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt các bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo này.

Đối với bị cáo Nguyễn Đình D xuất trình thêm tình tiết gia đình của bị cáo thuộc trường hợp có công với cách mạng, ông nội, ông ngoại bị cáo tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, huy chương kháng chiến và cha bị cáo tham gia lực lượng vũ trang quân đội tại chiến trường Tây Nam (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã D1, huyện D2, Thành phố Hà Nội ngày 15/5/2019) và bị cáo cũng cung cấp Thẻ tiết kiệm có kỳ hạn số I, số tài khoản II với số tiền 80.000.000 đồng, đứng tên Nguyễn Đình D mở tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) Chi nhánh Quận 4, Phòng giao dịch Khánh Hội. Đối với bị cáo Nguyễn Minh R có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo R cũng xuất trình Thẻ tiết kiệm có kỳ hạn số FG G, số tài khoản GG với số tiền 50.000.000 đồng đứng tên Nguyễn Minh R mở tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. Xét thấy, bị cáo D và bị cáo R kháng cáo xin được chấp hành hình phạt chính là phạt tiền và tại phiên tòa hai bị cáo này cũng chứng minh bản thân hai bị cáo có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành hình phạt tiền nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận kháng cáo, áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với hai bị cáo này. Do áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo D và bị cáo R.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận một phần lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và lời trình bày của Luật sư tại phiên tòa.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 345; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Trần Trọng P;

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Thanh T (T1);

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Hùng K;

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lại Quốc H;

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phạm Nhật L;

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Quốc M;

Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lê Đình X;

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Đình D;

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Minh R;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình D, Nguyễn Minh R; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, Trần Thanh T (T1), Nguyễn Hùng K, Lại Quốc H, Phạm Nhật H, Nguyễn Quốc M, sửa bản án sơ thẩm.

1/ Xử phạt bị cáo Huỳnh Trần Trọng P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 31/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

2/ Xử phạt bị cáo Trần Thanh T (T1) 02 (hai) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 31/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

3/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng K 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

4/ Xử phạt bị cáo Lại Quốc H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

5/ Xử phạt bị cáo Phạm Nhật L 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

6/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc M 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2018 đến ngày 17/01/2019.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

7/ Xử phạt bị cáo Lê Đình X 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để nộp ngân sách nhà nước.

8/ Xử phạt: Phạt tiền Nguyễn Đình D 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước. Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

9/ Xử phạt: Phạt tiền Nguyễn Minh R 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước. Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Huỳnh Trần Trọng P, bị cáo Trần Thanh T (T1), bị cáo Nguyễn Hùng K, bị cáo Lại Quốc H, bị cáo Phạm Nhật L, bị cáo Nguyễn Quốc M và bị cáo Lê Đình X phải nộp án phí hình sự phúc thẩm, theo đó mỗi bị cáo phải nộp là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Đình D, bị cáo Nguyễn Minh R không phải nộp phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 301/2019/HS-PT ngày 09/07/2019 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:301/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về