Bản án 30/2018/HSST ngày 28/08/2018 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỨỚNG HOÁ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 30/2018/HSST NGÀY 28/08/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 8 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2018/TLST-HS ngày 21/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2018/QĐXXST-HS ngày 01/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 15/2018/QĐST-HS ngày 14/8/2018 đối với bị cáo:

Thái Công T. Tên gọi khác: Đà, sinh năm: 1993 tại huyện H, tỉnh Quảng Trị; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn Q, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Nghề ngH: không nghề; Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thái Công Th và bà Trần Thị Th; Tiền án: 03 Tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể: ngày 06/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Ngày 30/8/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 11/11/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 13/9/2017 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/01/2018, tạm giam từ ngày 11/01/2018 tại nhà tạm giữu công an huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị cho đến nay; có mặt.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989, địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt.

Bà Trần Thị H2, sinh năm 1966, địa chỉ: Khối 1, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Có mặt.

Chị Hoàng Thị Th H3, sinh năm 1983, địa chỉ: Khối 2, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Thái Công Th, sinh năm 1968, địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện H, tỉnhQuảng Trị; Có mặt.

 Anh Thái Công T2, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Có mặt.

Chị Nguyễn Thị Thu L2, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Ông Lê Phi C, sinh năm 1969, địa chỉ: Khối 3a, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt

Anh Trần Viết T44, sinh năm 1972, địa chỉ: Khối 2, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt.

Bà Trương Thị T, sinh năm 1954, địa chỉ: Khối 2, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị; Vắng mặt.

Anh Bùi Việt H3, sinh năm 1997, địa chỉ: Khối 1, thị trấn K, huyện H, tỉnhQuảng Trị; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đêm 08 tháng 01 năm 2018, Thái Công T mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu sơn đỏ - đen, biển số 74K4-6107 của em ruột là Thái Công T2 đi chơi. Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 09 tháng 01 năm 2018, trên đường về nhà, T nảy sinh ý định ra khu vực chợ Khe Sanh tìm người sơ hở để cướp giật tài sản nên dừng xe lại tháo biển số bỏ dưới yên xe, đeo khẩu trang và lấy túi xách da màu đen đựng dụng cụ sửa chữa xe máy đeo vào cổ. Khoảng 05 giờ 45 phút cùng ngày, T điều khiển xe chạy đến đường Ngô Sỹ Liên thuộc khóm 3A, thị trấn K, huyện Hướng Hóa. Thấy phía trước có chị Nguyễn Thị H ở thôn T, xã T, huyện H đang đi bộ bên phải đường Ngô Sỹ Liên hướng lên Quốc lộ 9 có đeo 01 túi xách da màu đỏ có dây đeo chéo từ vai trái sang hông phải (bên trong túi xách có 1.305.000 đồng). T giảm tốc độ xe mô tô và áp sát vào bên trái người chị Hồng, dùng tay phải giật túi xách ở phía sau lưng chị Hồng, do dây đeo túi xách không bị đứt nên T không lấy được túi xách, chị Hồng bị ngã xuống đường và tri hô “Cướp, cướp”, T điều khiển xe máy bỏ chạy lên hướng Quốc lộ 9 được khoảng 10 mét thì bị ngãxuống đường. Anh Trần Viết T44, nhân viên ban quản lý chợ  Khe Sanh và anh Lê  Phi C ở khóm 3A, thị trấn K chạy đến để bắt giữ Thỏa. T lấy 01 cái búa đinh (của ông Thái Công Th là bố T để ở trước giá để hàng xe mô tô trước đó) giơ lên để đánh anh T4 và anh C nhằm tẩu thoát. Anh C và anh T4 sợ bị T đánh gây thương tích nên thả T ra. T bỏ xe lại và vứt búa đinh bên cạnh xe mô tô rồi bỏ chạy vào đường Bùi Thị Xuân, khóm 3A, thị trấn K rồi rẽ vào vườn cà phê của gia đình anh Bùi Trọng T5. T cởi áo khoác, quần dài, găng tay len, khẩu trang bịt mặt và túi xách đựng dụng cụ sửa chữa xe máy đã mang theo cất giấu vào bụi cây; mặc trên người quần đùi, áo phông tay ngắn và đội mũ lưỡi trai đi đến nhà anh Trương Hồng Q ở khóm 3A, thị trấn K ngồi chơi và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hướng Hóa phát hiện, giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Quá trình điều tra:

- Đã thu giữ và trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 túi xách bằng da màu đỏ, đã qua sử dụng, kích thước 26cm x 16cm, có dây đeo bằng da màu đỏ và 1.305.000  đồng.

- Đã thu giữ và trả lại cho anh Thái Công T2 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu sơn đỏ - đen đã qua sử dụng, số khung RLHJC4321AY193391, số máy JC3E – 5663507 và 01 biển số xe mô tô số 74K4 – 6107.

- Đã thu giữ và trả lại cho ông Thái Công Th 01 túi xách da màu đen đựng dụng cụ sửa chữa xe máy.

- Đã thu giữ 01 cái búa đinh cán dài 30 cm; 01 chiếc găng tay bằng len màu đen đã qua sử dụng; 01 áo khoác dài tay màu đen đã qua sử dụng, ở vị trí trước ngực áo có dòng chữ “Converse”; 01 quần dài bằng vải màu đen đã qua sử dụng; 01 khẩu trang bằng vải màu xanh, đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra, Thái Công T khai nhận và có đủ cơ sở kết luận: Trước khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Nguyễn Thị H, T đã thực hiện 02 lần cướp giật tài sản tại khu vực chợ Khe Sanh thuộc khóm 3A, thị trấn K, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, cụ thể:

Lần thứ nhất:

Khoảng 05 giờ 20 phút, ngày 06 tháng 12 năm 2017, Thái Công T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA VISION, màu sơn xanh, biển số 74C1-363.81 mượn của chị Nguyễn Thị Thu L2 ở thôn Q, xã T, huyện H đi từ đường Hai Bà Trưng, khóm 3A, thị trấn K ra Quốc lộ 9. Khi đến gần ngã ba giao nhau giữa đường Hai Bà Trưng với Quốc lộ 9, T nhìn thấy bà Trần Thị H2 ở khóm 1, thị trấn Khe Sanh đang đứng bên phải đường Hai Bà Trưng mua bán hàng hóa, Bà H2 có đeo một túi xách màu xanh đen choàng trên vai phải xuống hông phải nên T nảy sinh ý định cướp giật túi xách của Bà H2 để chiếm đoạt tài sản. T điều khiển xe mô tô chạy lên Quốc lộ 9 rồi quay xe lại chạy xuống đường Hai Bà Trưng. Khi đến gần Bà H2, T điều khiển xe chạy chậm lại và dùng tay trái nắm dây đeo túi xách ở phía sau lưng Bà H2 và giật lấy túi xách rồi điều khiển xe bỏ chạy. Bà H2 hô “Cướp, cướp” và cùng anh Bùi Việt H3 ở khóm 1, thị trấn Khe Sanh chạy bộ đuổi theo T nhưng không kịp. T điều khiển xe theo đường Hai Bà Trưng, rẽ vào đường Trần Hữu Dực rồi rẽ qua đường Đặng Thai Mai để lên Quốc lộ 9. Dự tính T sẽ vào đường Đặng Thai Mai để ra Quốc lộ 9 nên anh H3 chạy bộ vòng lại lên ngã ba giao nhau giữa đường Đặng Thai Mai với Quốc lộ 9 để chặn Thỏa. Khi T vừa điều khiển xe từ đường Đặng Thai Mai lên Quốc lộ 9 thì anh H3 chạy đến dùng chân đạp vào người T làm T loạng choạng tay lái và tiếp tục điều khiển xe chạy theo Quốc lộ 9 lên hướng thị trấn Lao Bảo và rẽ vào đường H3 Vương thuộc Khóm 2, thị trấn Khe Sanh rồi chạy vào đường trên bờ đê hồ chứa nước nông trường cũ thuộc Khóm 1, thị trấn Khe Sanh thì dừng lại mở túi xách ra lục tìm tài sản, phát hiện trong túi xách có 21.960.000 đồng, 03 ngòi bút bi màu xanh nhãn hiệu “Thiên Long”, 02 thỏi son, 02 chùm chìa khóa bằng kim loại và 03 quyển sổ. T lấy số tiền trên bỏ vào túi quần, số tài sản còn lại T bỏ vào trong túi xách và ném túi xách xuống hồ nước rồi điều khiển xe máy về nhà. Số tiền chiếm đoạt được, T đã tiêu xài hết.

Quá trình điều tra:

- Gia đình Thái Công T đã bồi thường cho bà Trần Thị H2 10.000.000 đồng. Bà H2 yêu cầu Thái Công T phải tiếp tục bồi thường 11.960.000 đồng. Số tài sản còn lại gồm 01 túi xách, 03 ngòi bút bi, 02 thỏi son, 02 chùm chìa khóa và 03 quyển sổ đã qua sử dụng và giá trị không đáng kể nên Bà H2 không yêu cầu bồi thường.

- Cơ quan CSĐT Công an huyện Hướng Hóa đã tiến hành truy tìm túi xách của bà Trần Thị H2 nhưng không có kết quả.

Lần thứ 2:

Đêm 08 tháng 01 năm 2018, Thái Công T mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu sơn đỏ - đen, biển số 74K4-6107 của em ruột là Thái Công T2 đi chơi. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 09 tháng 01 năm 2018, trên đường về nhà, T nảy sinh ý định ra khu vực chợ Khe Sanh tìm người sơ hở để cướp giật tài sản nên dừng xe lại tháo biển số bỏ dưới yên xe và lấy túi xách da màu đen đựng dụng cụ sửa chữa xe máy đeo vào cổ. Khoảng 05 giờ 40 phút cùng ngày, khi ra đến trước cổng chợ Khe Sanh, quan sát thấy chị Hoàng Thị Th H3 ở khóm 2, thị trấn Khe Sanh đang ngồi trên xe máy dừng ở bên phải đường Hai Bà Trưng, cách Quốc lộ 9 khoảng 3,6 mét theo hướng từ Quốc lộ 9 xuống chợ Khe Sanh để mua hàng hóa bán trên vỉa hè, chị H có đeo 01 túi xách bằng da màu đen dây chéo từ vai phải xuống hông trái (bên trong túi xách có 14.650.000 đồng) nên T nảy sinh ý định cướp giật túi xách của chị H để chiếm đoạt tài sản. T điều khiển xe máy đến gần chị H thì giảm tốc độ và áp sát bên trái người chị H và dùng tay phải giật túi xách của chị H nhưng không đứt dây đeo và làm cho chị H cùng xe máy ngã xuống đường. Chị H tri hô “Cướp, cướp”. Nghe tiếng hô của chị H, một số người có mặt ở khu vực chợ chạy đến, T điều khiển xe mô tô chạy theo đường Hai Bà Trưng hướng xuống chợ Khe Sanh tẩu thoát.

Quá trình điều tra đã thu giữ và trả lại cho chị Hoàng Thị Th H3 01 túi xách bằng da màu đen đã qua sử dụng, nhãn hiệu AIBKHK, kích thước 12 cm x 25 cm, có dây đeo bằng da màu đen và 14.650.000 đồng.

Bị cáo Thái Công T khai nhận vào các ngày 06/12/2017 và 08/01/2018, bị cáo đã 03 lần thực hiện việc cướp giật tài sản, cụ thể:

- Ngày 06/12/2017 thực hiện hành vi cướp giật tài sản của bà Trần Thị H2, trú tại: Khóm 1, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị.

- Ngày 08/01/2018, lúc 05h30 thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Hoàng Thị Th H3, trú tại; Khóm 2, thị trấn K, huyện H, tỉnh Quảng Trị.

- Ngày 08/01/2018, lúc 05h45 thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Nguyễn Thị H, trú tại: Thôn T, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Trị.

Bị hại bà Trần Thị H2 khai gia đình bị cáo đã bồi thường cho bà được 10.000.000 đồng, Bà H2 yêu cầu bị cáo T phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại 11.960.000 đồng, còn số tài sản khác Bà H2 không yêu cầu bồi thường. (Bút lục số  108) và yêu cầu xét xử bị cáo đúng pháp luật.

Bị hại chị Nguyễn Thị H khai tài sản chưa mất và cơ quan điều tra đã trả lại đủ tài sản cho chị nên chị không có yêu cầu gì. (Bút lục số 34).

Bị hại chị Hoàng Thị Th H3 khai tài sản chưa mất và cơ quan điều tra đã trả lại đủ tài sản cho chị nên chị không có yêu cầu gì. (Bút lục số 88).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

Ông Thái Công Th, anh Thái Công T2 có đơn xin nhân lại tài sản và đã đã được cơ quan điều tra tra lại tài sản đã được cơ quan điều tra tra lại tài sản (Bút lục số 162, 163).

Chị Nguyễn Thị Thu L2 khai không biết việc T mượn xe máy để đi cướp giật, chị chỉ biết khi cơ quan điều tra bắt T và báo cho chị biết (Bút lục số 117).

Người làm chứng anh Trần Viết T4 và anh Lê Phi C khai: khi nghe tiếng hô cướp của chị Nguyễn Thị H thì hai anh chạy đến thấy một thanh niên chạy xe máy  bị ngã xuống đường hai anh chạy đến để bắt giữ. Thì thanh niên đó lấy 01 cái búa đinh giơ lên để đánh anh T4 và anh C nhằm tẩu thoát. Anh C và anh T4 sợ bị đánh gây thương tích nên thả ra. Người thanh niên bỏ chạy, hai anh rượt theo nhưng không kịp.( Bút lục 52-55).

Người làm chứng anh Bùi Việt H3 khai thấy một thanh niên chạy ce máy từ đường Hai Bà Trưng, khóm 3A, thị trấn K ra Quốc lộ 9. Khi đến gần ngã ba giao nhau giữa đường Hai Bà Trưng với Quốc lộ 9 rồi quay xe lại chạy xuống đường Hai Bà Trưng. Khi đến gần Bà H2, thanh niên đó điều khiển xe chạy chậm lại và dùng tay trái nắm dây đeo túi xách ở phía sau lưng Bà H2 và giật lấy túi xách rồi điều khiển xe bỏ chạy. Bà H2 hô “Cướp, cướp” và đuổi theo, anh H3 chạy bộ đuổi theo nhưng không kịp. Anh H3 dự tính T sẽ vào đường Đặng Thai Mai để ra Quốc lộ 9 nên anh H3 chạy bộ vòng lại lên ngã ba giao nhau giữa đường Đặng Thai Mai với Quốc lộ 9 để chặn. Khi thanh niên vừa điều khiển xe từ đường Đặng Thai Mai lên Quốc lộ 9 thì anh H3 chạy đến dùng chân đạp vào người làm cho thanh niên loạng choạng tay lái và tiếp tục điều khiển xe chạy theo Quốc lộ 9 lên hướng thị trấn Lao Bảo. (bút lục 109-110)

Người làm chứng bà Trương Thị T khai bà thấy một thanh niên mặt bịt khẩu trang điều khiển xe Wave áp sát chị Hoàng Thị Th H3 và giật túi xách, túi xách không đứt nên làm cho chị H ngã, thanh niên lái xe bỏ chạy theo hướng đường Hai Bà Trưng xuống chợ Khe Sanh.(Bút lục 94).

Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS ngày 20 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáo Thái Công T về tội "Cướp giật tài sản" theo điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Hướng Hóa đề nghị: Tuyên bố bị cáo Tháo Công T (Đà) phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm d, đ, i khoản 2 điều 171, điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 57  Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 5 đến 7 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; các điểm a, c khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo T phải bồi thường cho bà Trần Thị H2 số tiền 11.960.000 đồng, trả lại cho ông Thái Công Th 01 cái búa đinh.

Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc găng tay bằng len màu đen; 01 áo khoác dài tay màu đen, ở vị trí trước ngực áo có dòng chữ “Converse”; 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 khẩu trang bằng vải màu xanh. Buộc Thái Công T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hướng Hóa, điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hướng Hóa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Thái Công T tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử khẳng định: Vào các ngày 06/12/2017 và 08/01/2018 bị cáo Thái Công T (Đà) đã dùng xe mô tô để cướp giật tài sản của bà Trần Thị H2, chị Hoàng Thị Th H3 và chị Nguyễn Thị H rồi nhanh chóng tẩu thoát. Khi bị anh Trần Viết T44 và anh Lê Phi C bắt giữ thì bị cáo T đã lấy 01 cái búa đinh đánh anh T4 và anh C để tẩu thoát. Bị cáo T đã tái phạm, chưa được xóa ántích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Vì vậy, hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội "Cướp giật tài sản" với các tình tiết tăng nặng định khung là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “Hành hung để tẩu thoát” và “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại các điểm d, đ và i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 như bản cáo trạng và lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Bị cáo Thái Công T đã 03 lần thực hiện hành vi cướp giật vào các ngày 06/12/2017 và 08/01/2018 nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy cần xử phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét đối với hai hành vi của bị cáo T khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Hoàng Thị Th H3 và chị Nguyễn Thị H vào ngày 08/01/2018 nhưng không chiếm đoạt được tài sản là do những nguyên nhân ngoài ý muốn nên hai hành vi này thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần căn cứ khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự thú về hành vi cướp giật trước đó và đã bồi thường 10.000.000 đồng cho bà Trần Thị H2 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra cơ quan Công an đã thu giữ và trả lại cho chị Hoàng Thị Th H3 01 túi xách bằng da màu đen đã qua sử dụng, nhãn hiệu AIBKHK, kích thước 12 cm x 25 cm, có dây đeo bằng da màu đen và 14.650.000 đồng, trả lại cho chị Nguyễn Thị H 01 túi xách bằng da màu đỏ, đã qua sử dụng, kích thước 26cm x 16cm, có dây đeo bằng da màu đỏ và 1.305.000 đồng; trả lại anh Thái Công T2 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu sơn đỏ - đen đã qua sử dụng, số khung RLHJC4321AY193391, số máy JC3E-5663507 và 01 biển số xe mô tô số 74K4-6107 và trả lại cho ông Thái Công Th 01 túi xách da màu đen đựng dụng cụ sửa chữa xe máy là đúng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Các vật chứng còn lại: 01 cái búa đinh cán dài 30 cm của ông Thái Công Th, ông Thành không biết bị cáo T đã sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho ông Thái Công Th. Đối với 01 chiếc găng tay bằng len màu đen; 01 áo khoác dài tay màu đen, ở vị trí trước ngực áo có dòng chữ “Converse”; 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 khẩu trang bằng vải màu xanh không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a, c khỏan 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vật chứng hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Hướng Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/6/2018 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Hướng Hóa và chi Cục thi hành án huyện Hướng Hóa.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại chị Nguyễn Thị H và chị Hoàng Thị Th H3 đã nhận lại đủ tài sản, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án ông Thái Công Th và anh Thái Công T2 không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với số tiền 21.960.000 đồng mà bị cáo Thái Công T đã chiếm đoạt của bà Trần Thị H2 và đã trả lại cho Bà H2 10.000.000 đồng. Nay bà Trần Thị H2 yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền đã chiếm đoạt còn thiếu là 11.960.000 đồng. Đây là yêu cầu phù hợp quy định của pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 nên buộc bị cáo T phải trả lại số tiền 11.960.000 đồng cho Bà H2.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Thái Công T (Đà) phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 598.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 57 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Thái Công T. Tên gọi khác: Đà phạm tội "Cướp giật tài sản".

Xử phạt bị cáo Thái Công T (Đà) 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (ngày 09/01/2018).

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Thái Công T phải trả lại số tiền 11.960.000 đồng cho bà Trần Thị H2.

3. Về vật chứng: Trả lại 01 cái búa đinh cán dài 30 cm cho ông Thái Công Th. Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc găng tay bằng len màu đen; 01 áo khoác dài tay màu đen, ở vị trí trước ngực áo có dòng chữ “Converse”; 01 quần dài bằng vải màu đen; 01 khẩu trang bằng vải màu xanh theo biên bản giao nhận vật chứng ngày  21/6/2018 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Hướng Hóa và chi Cục thi hành án huyện Hướng Hóa.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền T thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy dịnh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Thái Công T (Đà) phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 598.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo Thỏa, chị Trần Thị H2, ông Thái Công Th và Thái Công T2 có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Hoàng Thị Th H3, chị Nguyễn Thị H và chị Nguyễn Thị Thu L2 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

378
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HSST ngày 28/08/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:30/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hướng Hóa - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về