Bản án 30/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 30/2018/HS-ST NGÀY 30/03/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đông Anh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/HSST ngày 07 tháng 3 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đàm Thị P, sinh năm 1946. HKTT và chỗ ở: T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Nghề nghiệp: Nghỉ hưu. Văn hoá: 7/10. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Đàm Văn S (chết). Con bà: Nguyễn Thị P (chết). Gia đình cò 4 anh em, bị cáo là thứ 4. Chồng là Đàm Xuân T; Có 03 con, con lớn sinh năm 1975, con nhỏ sinh năm 1985. Theo danh chỉ bản số 107 do Công an huyện Đông Anh lập ngày 10/01/2018 và trích lục tiền án, tiền sự số 1380731/PC53 ngày 24/01/2018 của Phòng hồ sơ nghiệp vụ Cảnh sát Công an Thành phố Hà Nội thì bị cáo: Không có tiền án, không có tiền sự. Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền sự: Ngày 20/10/2007, Công an huyện Đông Anh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cờ bạc (ghi bán lô, đề); Ngày 11/9/2008, Công an huyện Đông Anh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi ghi bán lô, đề. Tạm giữ, tạm giam: Không. Đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Thị P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 17h30’ ngày 25/12/2017, tổ công tác Công an thị trấn Đông Anh – Công an huyện Đông Anh kiểm tra phát hiện bắt quả tang bị cáo Đàm Thị P đang có hành vi bán số lô cho Ngô Văn V, sinh năm 1976; trú tại: Thôn DN, xã VH, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội tại quán nước của P ở T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội. Ngoài ra, quá trình kiểm tra còn phát hiện chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1974; trú tại: T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội; ông Đàm Xuân T, sinh năm 1944; trú tại: T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội (chồng P) và anh Hà Văn L, sinh năm 1965; trú tại: T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội đang ngồi uống nước tại quán của P.

Vật chứng tạm giữ:

+ Thu giữ của Đàm Thị P: 01 bản cáp ghi số lô, số đề (bị can P xác định vào ngày 25/12/2017); 01 điện thoại di động Iphone 5 màu bạc, số IMEI 013718001710393 (màn hình bị vỡ góc trên bên phải), lắp sim thuê bao 0966423137; 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng số IMEI: 359257008877722, lắp sim thuê bao 0966309899; 01 sổ ghi kết quả xổ số và số tiền 5.590.000 (Năm triệu năm trăm chín mươi nghìn) đồng;

+ Thu giữ của Ngô Văn V: 01 tờ tích kê mua số lô của P ngày 25/12/2018.

Tổ công tác lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đưa bị cáo P và những người liên quan cùng toàn bộ vật chứng thu giữ về trụ sở để điều tra làm rõ.

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra đã chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo Đàm Thị P như sau: Bị cáo Đàm Thị P là công nhân Công ty 1-5 về hưu, bán quán nước trước cửa nhà. Để có thêm thu nhập, từ đầu năm 2017 cho đến ngày bị bắt, bị cáo P trực tiếp bán số lô, số đề cho các con bạc nhằm thu lợi bất chính.

Bị cáo Đàm Thị P căn cứ vào kết quả mở thưởng các giải xổ số Miền Bắc trong ngày để trả thưởng với các con bạc, cụ thể như sau: Đề hai số trả thưởng gấp 80 lần; Đề ba số trả thưởng gấp 400 lần; 01 điểm lô thường trả thưởng 80.000 đồng; Lô xiên hai trả thưởng gấp 10 lần; Lô xiên ba trả thưởng gấp 40 lần; Lô xiên bốn trả thưởng gấp 100 lần. Với mỗi một điểm lô, P bán cho các con bạc là 23.000 đồng, còn số đề thì tùy các con bạc cược. Các con bạc khi có nhu cầu mua số lô, số đề thì đến quán nước của P gặp và mua trực tiếp của P, P cầm tiền rồi viết tích kê giao lại cho các con bạc (trên đó ghi các số lô, số đề mà các con bạc mua và có chữ ký của P). Khi trúng thưởng, con bạc cầm tích kê đến gặp bị cáo P nhận thưởng. Hàng ngày, bị cáo P bán số lô, đề cho các con bạc đến khoảng 18h00 thì “khóa bảng cáp”, tất cả số lô, số đề mà khách mua sẽ được P tập hợp vào 01 bảng cáp để theo dõi. Cơ quan điều tra tiến hành cho P nhận dạng 01 bảng cáp lô đề thu giữ tại quán nước của P, bị cáo P xác định bảng cáp thu giữ tại quán nước của P là do P ghi bán số lô, đề cho các con bạc vào ngày 25/12/2017.

Ngày 16/01/2018, Cơ quan điều tra Quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, giám định chữa viết và chữ số trên bảng cáp lô, đề và tích kê ghi lô đề đã tạm giữ. Ngày 09/02/2018, Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ viết và chữ số trên bảng cáp lô đề và tích kê ghi lô đề gửi giám định là do Đàm Thị P viết.

Áp dụng Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249 Bộ luật Hình sự năm 1999, xác định số tiền tham gia đánh bạc của Đàm Thị P trong bảng cáp số lô, số đề ngày 25/12/2017 như sau:

+ Tiền đề hai số là: 4.049.000 (Bốn triệu không trăm bốn mươi chín nghìn) đồng.

+ Tiền đề ba số là: 440.000 (Bốn trăm bốn mươi nghìn) đồng.

+ Tiền lô hai số: 305 điểm x 23.000đ/01 điểm = 7.015.000 (Bảy triệu không trăm mười lăm nghìn) đồng.

+ Tiền lô xiên 3 và 4 là: 150.000 (Một trăm năm mươi nghìn) đồng.

Tổng tiền tham gia đánh bạc trong bảng cáp trên là: 11.654.000 (Mười một triệu sáu trăm năm mươi tư nghìn) đồng. Do ngày 25/12/2017, bị cáo Đàm Thị P bị bắt quả tang nên không có căn cứ tính tiền thắng thua và thu lời của bị cáo P.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Đàm Thị P khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ. Ngoài ra, tại cơ quan điều tra, ban đầu bị can P khai nhận đã ghi bán số lô, đề thuê cho Nguyễn Anh Đ, sinh 1985 ở T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội nhưng sau đó bị cáo đã phủ nhận lại lời khai của mình, bị cáo xác định việc bị cáo bán số lô, số đề là do một mình bị cáo thực hiện. Cơ quan điều tra đã triệu tập Nguyễn Anh Đ đến làm việc, kết quả điều tra Nguyễn Anh Đ cũng không thừa nhận có hành vi liên quan đến việc thuê bị cáo P bán số lô, số đề cho Đ. Xét ngoài lời khai của bị cáo P không còn tài liệu nào khác, do vậy không có căn cứ xử lý đối với Nguyễn Anh Đ.

Đối với Ngô Văn V có hành vi đánh bạc, xét chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 15/01/2018, Công an huyện Đông Anh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ngô Văn V là có căn cứ.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 5 (kèm theo sim số thuê bao 0966.423.137) và điện thoại di động Iphone 6 (kèm theo sim số thuê bao 0966.309.899) tạm giữ của bị cáo P, kết quả điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Đàm Xuân L, sinh năm 1985; trú tại: T27, TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội (con trai bị cáo P) và không liên quan đến vụ án, nên ngày 22/02/2018 Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả 02 điện thoại trên cho anh L là phù hợp.

Đối với số tiền 5.590.000 (Năm triệu năm trăm chín mươi nghìn) đồng, tạm giữ của bị cáo P là tang vật chứng của vụ án nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ, chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với các bảng cáp lô, đề trước ngày 25/12/2017, bị cáo P khai đã hủy hết, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không có căn cứ điều tra làm rõ.

Đối với những con bạc mua số lô, đề của bị cáo P trong ngày 25/12/2017, bị cáo P không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra xử lý.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 07/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố bị cáo Đàm Thị P về tội: Đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ nguyên nội dung bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 07/3/2018 của Viện kiểm sát huyện Đông Anh truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm o, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Đàm Thị P từ 06 đến 08 tháng tù cho hưởng án teo. Thời hạn thử thách từ 12 đến 16 tháng. Giao bị cáo cho UBND TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội nơi bị cáo thường trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

- Bị cáo hơn 70 tuổi nên không phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 5.590.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Tại phiên toà, bị cáo Đàm Thị P khai nhận có hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án; phù hợp với ý kiến phát biểu, lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa và phù hợp với nội dung vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h30’ ngày 25/12/2017, tổ công tác Công an thị trấn Đông Anh – Công an huyện Đông Anh kiểm tra phát hiện bắt quả tang bị cáo P đang có hành vi bán số lô cho Ngô Văn V. Hành vi của bị P đã phạm tội: Đánh bạc. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999. Điều khoản này quy định hình phạt tù “…từ 03 tháng đến 3 năm”. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, theo khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[2] Đánh giá tính chất hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo trong vụ án này cho thấy: Bị cáo Đàm Thị P phạm tội đánh bạc với hình thức bán số lô, đề. Tổng số tiền bị cáo thu khi bán số lô, đề là 11.654.000đ.

Hành vi đánh bạc (bán số lô, đề thu tiền 11.654.000đ) của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng và còn là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Vì vậy, phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc.

[3] Về nhân thân và tiền án, tiền sự bị cáo:

- Về tiền án, tiền sự: Bị cáo Đàm Thị P không có tiền án, không có tiền sự.

- Về nhân thân: Bị cáo Đàm Thị P không có tiền án đã được xóa; có 02 tiền sự đã được xóa. Ngày 20/10/2007, Công an huyện Đông Anh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cờ bạc (ghi bán lô, đề); Ngày 11/9/2008, Công an huyện Đông Anh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi ghi bán lô, đề.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Khi lượng hình Toà án có xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, đó là:

- Áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc Thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 và hiệu lực thi hành Bộ luật Hình sự số 101/2015/QH13 của Quốc hội.

+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (…hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm) và theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 (…hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm). Như vậy, khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 nhẹ hơn khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo P.

+ Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (…phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ) và theo quy định tại khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 (…phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng). Như vậy, khung hình phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 nhẹ hơn khung hình phạt theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, áp dụng khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo P.

- Bị cáo Đàm Thị P khi phạm tội đã hơn 70 tuổi; Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo, được cải tạo ngoài xã hội dưới sự giúp đỡ của gia đình và chính quyền địa phương cũng có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo qui định tại khoản 3 Điều 248 Bộ luật Hình sự; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 3.000.000đ đến 30.000.000đ. Xét thấy bị cáo hơn 70 tuổi, nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với số tiền bị cáo bán số lô, đề tính theo bảng cáp là 11.654.000đ, nhưng bị cáo bán số lô, đề chịu và đã trả thưởng ngày hôm trước, khi Cơ quan điều tra bắt phạm tội quả tang chỉ thu được của bị cáo 5.590.000đ, là tiền do phạm tội mà có, nên tịch thu sung công quỹ nhà nước

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đàm Thị P phạm tội: “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm o, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc hội.

Xử phạt: Đàm Thị P 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 16 (Mười sáu) tháng và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật Thi hành án dân sự, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Đàm Thị P cho UBND TTĐA, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nộinơi bị  cáo thường trú giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách bản án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 5.590.000đ. (theo giấy nộp tiền vào tài khoản của Công an huyện Đông Anh nộp vào tài khoản số 3949.0.1047882 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh ngày 08/3/2018)

- Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 22 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Kèm theo Danh mục án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

- Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:30/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về