Bản án 30/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Tắc P; tên gọi khác: Bồ; sinh năm 1990 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký HKTT: thôn 2, xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: tổ 12, thị trấn Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Say Q, sinh năm 1970 và bà Trần Sập M, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 04/10/2018 bị Công an thị trấn Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (đã nộp phạt ngày 04/10/2018); nhân thân: Ngày 27/10/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã Bảo Lộc (nay là thành phố Bảo Lộc), tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội “cướp giật tài sản”. Bị bắt tạm giữ từ ngày 07/01/2019 đến ngày 10/01/2019 chuyển sang tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

+ Người bị hại: Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1965 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 2, xã Lộc L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Trần Thị H, sinh năm 1982 (có mặt)

Địa chỉ: Thôn 4, xã Lộc P, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Tắc P (1990), có HKTT tại thôn 2, xã Lộc N, huyện B, tỉnh Lâm Đồng là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 04/10/2018 P bị Công an thị trấn Lộc T, huyện B ra quyết định xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 07/01/2019, Hồ Tắc P điều khiển xe gắn máy biển số 49V3-2977 mang theo kìm bấm đến xã Lộc P, huyện B với mục đích lợi dụng sơ hở của các hộ dân để lấy trộm tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Khi đến vườn trồng dâu của ông Nguyễn Hoàng V tại thôn Hang Lang, xã Lộc P, huyện B, tỉnh Lâm Đồng P phát hiện có rào lưới B40 móc vào cột bê tông. Do không có người trong vườn nên P dùng kìm bấm cắt dây kẽm buộc lưới B40 vào cột bê tông rồi gỡ lưới B40 để cuộn thành bó, sau đó đưa lên yên xe máy chở ra bán tại tiệm thu mua phế liệu của bà Trần Thị H tại thôn 4, xã Lộc P, huyện B. Sau khi bà H cân cuộn lưới B40 được 45 kg trả tiền 250.000 đồng cho P thì bị Công an xã Lộc P, huyện B lập biên bản giữ người cùng tang vật.

Tại kết luận định giá tài sản số 02/KLĐG ngày 09/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 45 ký lưới kẽm B40 có giá là 225.000 đồng.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận. Bị cáo Hồ Tắc P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị tuyên bố bị cáo Hồ Tắc P phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Hồ Tắc P từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2019. Về trách nhiệm dân sự: đối với ông Nguyễn Hoàng V đã nhận lại toàn bộ tài sản là 45 kg lưới B40 và không yêu cầu gì thêm, đối với bà Trần Thị H đã đưa cho bị cáo P số tiền 250.000 đồng mua lưới B40, nay yêu cầu bị cáo P có trách nhiệm trả lại số tiền trên cho bà H. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng, án phí hình sự, dân sự sơ thẩm.

+ Bị cáo Hồ Tắc P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

+ Chủ tọa công bố toàn bộ lời khai của người bị hại ông Nguyễn Hoàng V trùng khớp với lời khai của bị cáo, người liên quan. Ông V đã nhận lại tài sản là 45 kg lưới B40 và không có yêu cầu gì thêm.

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày trùng khớp với lời khai của bị cáo, bị hại. Bà H yêu cầu bị cáo P trả lại số tiền 250.000 đồng.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhận thức được hành vi phạm tội là sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo Hồ Tắc P thể hiện:

Bị cáo Hồ Tắc P có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Cụ thể ngày 04/10/2018 bị Công an thị trấn Lộc T, huyện B, tỉnh Lâm Đồng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo P tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thôn Hang Lang, xã Lộc P, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Lợi dụng khi không có chủ sở hữu trông coi tài sản, đồng thời muốn có tiền để mua ma túy sử dụng nên ngày 07/01/2019 Hồ Tắc P đã lén lút, bí mật chiếm đoạt của ông Nguyễn Hoàng V trú tại thôn 2, xã Lộc L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng 45 kg lưới B40. Tại kết luận định giá tài sản số 02/KLĐG ngày 09/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 45 ký lưới kẽm B40 có giá là 225.000 đồng.

Do đó, hành vi của bị cáo Hồ Tắc P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm đã truy tố đối với bị cáo P là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật mà vẫn thực hiện, thể hiện sự liều lĩnh, gây dư luận xấu về tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân không tốt (ngày 27/10/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã Bảo Lộc (nay là thành phố Bảo Lộc), tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội “cướp giật tài sản”, là đối tượng nghiện ma túy). Vì vậy, cần thiết phải áp dụng cho bị cáo P một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, đủ để răn đe, cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra bị cáo Hồ Tắc P có khai việc trộm cắp lưới B40 là do K’ Y trú tại thôn Hang Lang, xã Lộc P, huyện B chỉ chỗ. Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với K’ Y, đối chất giữa bị cáo P và K’ Y. Bị cáo P khai do bị nghiện ma túy nên không nhớ chính xác địa điểm gặp K’ Y, K’Yon không thừa nhận đã gặp và chỉ chỗ có tài sản để cho P trộm cắp. Tại phiên tòa bị cáo P thừa nhận là do mình thực hiện, không liên quan đến K’ Y. Do đó không có căn cứ để xử lý đối với K’ Y là đúng pháp luật. Hội đồng xét xét xử không đề cập đến.

Đối với bà Trần Thị H mua lưới B40 do P bán nhưng không biết là tài sản do trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý đối với bà H là đúng pháp luật. Hội đồng xét xét xử không đề cập đến.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 166 Bộ luật dân sự 2015.

Người bị hại là ông Nguyễn Hoàng V đã nhận lại tài sản của mình là 45 kg lưới B40 và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập đến. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H có đưa cho bị cáo P số tiền 250.000 đồng tiền mua lưới B40 nay yêu cầu bị cáo P trả lại số tiền trên, bị cáo P đồng ý. Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo P trả lại cho bà H số tiền 250.000 đồng là có căn cứ và đúng pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo P sử dụng xe máy hiệu Suzuki Smash màu xanh BKS 49V3-2977 làm phương tiện đi lại và chở tài sản trộm cắp, số khung số máy đã bị tẩy xóa. Bị cáo trình bày xe máy do bị cáo mua lại của người khác, có giấy chứng nhận đăng ký xe. Tuy nhiên hiện nay xe máy trên chưa xác định được số khung số máy nên cần tiếp tục giao Công an huyện Bảo Lâm xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật. Bị cáo sử dụng 01 kìm bấm cầm tay bằng kim loại màu đen dài 15,5 cm, lưỡi kìm sắc nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ đen để làm công cụ cắt lưới B40, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 250.000 đồng là tiền thu lợi bất chính do bị cáo bán tài sản phạm tội mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là có căn cứ và đúng pháp luật

[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án” buộc bị cáo Hồ Tắc P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Tắc P phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Hồ Tắc P 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/01/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hồ Tắc P phải trả cho bà Trần Thị H số tiền 250.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

3. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 kìm bấm cầm tay bằng kim loại màu đen dài 15,5 cm, lưỡi kìm sắc nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ đen.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 250.000 đồng.

+ Giao cơ quan Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng tiếp tục xác minh làm rõ chủ sở hữu hợp pháp xe máy nhãn hiệu Suzuki Smash biển số 49V3- 2977 (số khung, số máy bị tẩy xóa) và xử lý theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Hồ Tắc P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (người liên quan chỉ được kháng cáo phần liên quan đến yêu cầu của mình), người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về