Bản án 31/2017/HSST ngày 11/07/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 31/2017/HSST NGÀY 11/07/2017  VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Hôm nay, vào lúc 14 giờ 00 ngày 11 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Phú Yên mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 29/2017/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2017 đối với bị cáo:

Phạm Nhật B – sinh năm: 1998; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn P1, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: nông; trình độ văn hoá: 08/12; con ông: Phạm Ngọc B – sinh năm 1967 và bà: Bùi Thị Ngọc N – sinh năm 1970; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người bị hại: Ông Võ T – sinh năm 1932; Nơi cư trú: thôn P1, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, (chết).

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Võ Ngọc P – sinh năm 1984; Nơi cư trú: thôn P1, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị Ngọc N – sinh năm 1970; Nơi cư trú: thôn P1, xã H, huyện Đ, Phú Yên, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Nhật B bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 04/03/2017, Phạm Nhật B (không có giấy phép lái xe) điều khiển xe mô tô biển số 78N4-8300 lưu hành trên đường Quốc lộ 1A, theo hướng Nam – Bắc. Khi đến Km 1347+500, đoạn đường thuộc thôn P1, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, có ông Võ T điều khiển xe đạp cùng chiều, lưu hành phía trước, đang chuyển hướng từ Đông sang Tây. Do không làm chủ tốc độ, thiếu quan sát nên B xử lý không kịp, làm phần tay nắm bên phải xe mô tô của B va chạm vào tay nắm lái bên trái xe đạp của ông T gây tai nạn. Hậu quả làm ông T bị thương, được đưa đến bệnh viện cấp cứu, điều trị đến ngày 15/3/2017 thì chết.

Theo B kết luận giám định pháp y về tử thi số 71/TT ngày 24/3/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Ông Võ T chết do chấn thương sọ não, chấn thương đùi trái.

* Vật chứng vụ án:

- Xe mô tô biển số 78N4-8300 đã trả lại cho chủ sở hữu;

- Xe đạp đã trả lại cho chủ sở hữu.

* Về dân sự: Bị cáo Phạm Nhật B đã bồi thường, khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại 30.000.000 đồng. Gia đình người bị hại Võ T đã nhận và làm giấy bãi nại không yêu cầu gì thêm.

Tại B cáo trạng số 30/VKS-HS ngày 26/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin Tòa xử mức án thấp và cho bị cáo tại ngoại để bị cáo có điều kiện lao động giúp đỡ gia đình.

Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Nhật B từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình người bị hại không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số 78N4-8300 và xe đạp đã trả lại cho chủ sở hữu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo; Người đại diện hợp pháp của người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan;

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 04/3/2017, tại Km 1347+500 Quốc lộ 1A thuộc thôn P1, xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên, Phạm Nhật B (không có giấy phép lái xe) đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 78N4-8300 có dung tích xilanh trên 50 cm3 lưu hành theo hướng Nam – Bắc, do thiếu quan sát nên đã tông vào xe đạp do ông Võ T điều khiển lưu hành cùng chiều phía trước, hậu quả làm ông Trí chết.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự giao thông đường bộ, làm thiệt hại tính mạng của người khác. Bị cáo không có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô không làm chủ tốc độ là vi phạm khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ, gây tai nạn làm chết 01 người nên đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự. Do đó, cần xử bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã thật thà khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, đã bồi thường cho gia đình người bị hại tổng cộng 30.000.000 đồng. Gia đình người bị hại có đơn bãi nại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Mặt khác, trong vụ tai nạn này, ông T đã 85 tuổi, đi xe đạp chuyển hướng từ Đông sang Tây, rẽ trái theo hướng lưu hành, không báo hiệu xin chuyển hướng rẽ trái, không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông khác nên cũng có một phần lỗi. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử bị cáo dưới mức thấp của khung hình phạt, đồng thời bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, được người bị hại đề nghị nên không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự, cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình người bị hại có đơn bãi nại và không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

Về vật chứng vụ án: Xe đạp, xe mô tô biển số 78N4-8300 đã trả lại cho chủ nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. 

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Nhật B phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.”

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Nhật B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Nhật B cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Khi bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

* Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Nhật B phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2017/HSST ngày 11/07/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:31/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về