Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 12/03/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/03/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 12 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2017/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2017 về việc không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2018/QĐXX-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Kiều T, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ:  Ấp A, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Anh  Nguyễn Minh T, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ:  Ấp B, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 10/10/2017 cũng như tại phiên tòa, chị Đặng Kiều T trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đặng Kiều T và anh  Nguyễn Minh T tự nguyện chung sống với nhau có tổ chức lễ cưới năm 2008 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. thời gian chung sống do không hợp nhau, thường hay cự cãi nên phát sinh mâu thuẫn không hàn gắn được. Vì vậy chị T và anh T không còn chung sống với nhau từ năm 2012 đến nay. Do cuộc sống không hạnh phúc nên chị  T yêu cầu chấm dứt mối quan hệ với anh  T.

Về con chung: Thời gian chung sống chị T và anh T có một người con chung cháu tên Nguyễn Thị Mỹ A, sinh ngày 25/02/2009, hiện cháu Mỹ A do anh  T nuôi dạy. Khi ly hôn chị T thống nhất giao anh T tiếp tục nuôi dạy. Chị T không cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến khi xét xử tuân thủ đúng theo quy định.

Về nội dung: Tại hồ sơ vụ án thể hiện chị Đặng Kiều T và anh  Nguyễn Minh T chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn là chưa tuân thủ đúng quy định pháp luật. Do đó, áp dụng Điều 14, 53 luật hôn nhân và gia đình không công nhận chị T và anh  T là vợ chồng. Con chung tên Nguyễn Thị Mỹ A, sinh ngày 25/02/2009, hiện do anh T nuôi dạy nên cần giao anh T nuôi dạy là có cơ sở. Anh T không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xét. Tài sản chung, nợ chung không có nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Đặng Kiều T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Nguyễn Minh T nhưng do anh chị chung sống không đăng ký kết hôn theo quy định nên đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc không công nhận quan hệ vợ chồng; Anh T có địa chỉ tại ấp B, xã TB, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải  và có tống đạt hợp lệ cho anh T nhưng anh T không có văn bản ý kiến đối với yêu cầu của chị T và vắng mặt không có lý do. Tòa án hai lần đưa vụ án ra xét xử và có tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng này cho anh  T nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh  T theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Chị Đặng Kiều T và anh Nguyễn Minh T tự nguyện chung sống với nhau và có tổ chức lễ cưới vào năm 2008 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T chưa tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình chung sống anh chị có đủ điều kiện đăng ký kết hôn, nhưng anh chị không thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 luật Hôn nhân và gia đình nên không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Thời gian chung sống do bất đồng quan điểm nên anh chị không còn chung sống với nhau từ năm 2012 đến nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình không công nhận chị Đặng Kiều T và anh  Nguyễn Minh T là vợ chồng.

[4] Về con chung: Cháu tên Nguyễn Thị Mỹ A, sinh ngày 25/02/2009 (giới tính nữ). Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, chị  T tự nguyện giao cháu Mỹ cho anh T nuôi dạy. Xét thấy, cháu Mỹ A hiện do anh T nuôi dạy, việc hoán đổi nuôi con sẽ ảnh hưởng đến tình cảm của cháu Mỹ A. Hơn nữa, vào ngày 28/10/2018 cháu Mỹ A có ý kiến và nguyện vọng được tiếp tục chung sống cùng anh  T. Vì vậy, cần tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Mỹ A cho anh  Nguyễn Minh T nuôi dạy là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 luật Hôn nhân và gia đình. Chị  T không trực tiếp nuôi dạy cháu Mỹ Anh nhưng chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tống đạt hợp lệ cho anh  T thông báo thụ lý về yêu cầu của chị  T nhưng anh  T không có ý kiến đối với việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[5] Về tài sản chung: Chị  T xác định thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Thời gian chung sống, chị  T xác định anh chị không có nợ chung, vợ chồng không có nợ người ngoài và người ngoài cũng không nợ vợ chồng. Tại đơn xác nhận ngày 10/10/2017, Ủy ban nhân dân xã Thới Bình, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xác nhận hiện Ủy ban nhân dân xã không có nhận đơn về nợ đối chị T và anh  T. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Kiều T phải chịu án phí – Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 14, 53, 81, 82 và Điều 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Đặng Kiều T và anh  Nguyễn Minh T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Mỹ A, sinh ngày 25 tháng 02 năm 2010 (giới tính nữ) cho anh  Nguyễn Minh T tiếp tục nuôi dạy. Chị  T không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị  T không trực tiếp nuôi dạy con chung nhưng chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Đặng Kiều T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 19 tháng 10 năm 2017 chị  T có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0018822 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.

5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh T vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

587
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 12/03/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về