Bản án 31/2018/HSPT ngày 22/05/2018 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 31/2018/HSPT NGÀY 22/05/2018 VỀ TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2018/HSPT ngày 11  tháng 4 năm 2018 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2018/HSST ngày 08/3/2018 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

Bị cáo kháng cáo: Nguyễn Như H- sinh ngày: 17/02/1968. Nơi cư trú: Khu 8, thị trấn T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Dân tộc: Kinh ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Giới tính: Nam. Trình độ VH: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Nguyễn Ngọc U, SN 1936 và bà: Đặng Thị M, SN 1947. Anh chị em ruột: 06 người, lớn nhất sinh năm 1966, nhỏ nhất sinh năm 1979, Bị can là con thứ 02. Vợ: Đặng Thị H, sinh năm 1972 (Hiện đã ly hôn). Con: Có 01 con, sinh năm 1992. Tiền án: 01 tiền án:

+ Bản án số 13/2013/HSST ngày 27/3/2013 Toà án nhân dân huyện Thanh Ba xử phạt Nguyễn Như H 42 (bốn mươi hai) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2012. H chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/12/2015 (BL 103) và thi hành xong các khoản án phí hình sự sơ thẩm và Tịch thu sung công quỹ nhà nước ngày 22/5/2013 (BL 98-101).

- Lich sử bản thân:

+ Bản án số 02/HSST ngày 01/2/1996 Toà án nhân dân huyện Thanh Ba xử phạt Nguyễn Như H 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. H thi hành xong án phí ngày 11/4/1996.

+ Bản án số 05/HSST ngày 27/02/1997 Toà án nhân dân huyện Thanh Ba xử phạt Nguyễn Như H 18 tháng tù về tội Tổ chức dùng chất ma tuý. H đã thi hành xong án phí ngày 04/8/1999.

+ Bản án số 23/HSST ngày 18/11/2003 Toà án nhân dân huyện Thanh Ba, xử phạt Nguyễn Như H 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. H đã thi hành xong án phí ngày 20/3/2007.

+ Bản án số 22/2007/HSST ngày 29/5/2007 Toà án nhân dân huyện Thanh Ba, xử phạt Nguyễn Như H 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. H đã thi hành xong án phí ngày 08/9/2008.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/10/2017 tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 00 phút ngày 01/10/2017, tại khu 06 thị trấn T, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cơ quan CSĐT công an huyện Thanh Ba đã phát hiện Trần Thị Minh N, sinh năm 1980 trú tại khu 06 thị trấn T huyện Thanh Ba có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Thanh Ba đã lập biên bản vi phạm hành chính, thu giữ của N:

- 01(một) gói nhỏ bằng giấy mặt ngoài màu trắng, có nhiều dòng kẻ, số và chữ màu đen, bên trong chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroin (Niêm phong trong bì số 01).

Trần Thị Minh N khai nhận: Chất bột cục màu trắng chứa trong gói giấy bị thu giữ là chất ma tuý Heroin, nguồn gốc N vừa mua được của Nguyễn Như H sinh năm 1968 trú tại Khu 8 thị trấn T, huyện Thanh Ba với giá 300.000đ để sử dụng cho bản thân nhưng chưa sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.

Ngày 01/10/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Thanh Ba khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Nguyễn Như H, phát hiện thu giữ:

- Thu giữ tại túi quần phía sau bên pH của H đang mặc: 01(Một) gói nhỏ bằng nilon màu trắng hàn kín 03 (ba) cạnh, một cạnh có khuy bấm bịt kín, bên trong có chứa 06 gói nhỏ bằng nilon màu trắng hàn kín xung quanh và 01 (một) gói nhỏ bằng giấy màu trắng (Bì niêm phong số 02).

- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu ASUS màu đen màn hình cảm ứng lắp sim số 0973.173.389 và 0968.023.303.

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 900.000đ( Chín trăm nghìn đồng).

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba ra quyết định trưng cầu giám định số mẫu vật đã thu giữ của Trần Thị Minh N và Nguyễn Như H.

Tại bản Kết luận giám định số: 1170/KLGĐ, ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

 “1. Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu Bì số 01 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại Heroin. Heroin là chất ma tuý nằm trong danh mục I, TT 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Khối lượng (trọng lượng)của mẫu gửi giám định là 0,0200 gam (không phẩy không hai không không gam, không kể bao bì. Hàm lượng Heroin trong 0,0200 gam mẫu là 66,917 %.

2. Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu Bì số 02 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại Heroin. Heroin là chất ma tuý nằm trong danh mục I, TT 20, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Khối lượng (trọng lượng)của mẫu gửi giám định là 0,7236 gam (không phẩy bảy hai ba sáu gam, không kể bao bì. Hàm lượng Heroin trong 0,7236 gam mẫu là 67,936 % ”.

Tại các biên bản ghi lời khai và bản kiểm điểm ngày 01/10 và 03/10/2017; Biên bản hỏi cung bị can ngày 04/10/2017 và biên bản đối chất giữa Trần Thị Minh N và Nguyễn Như H ngày 02/10/2017. Nguyễn Như H thừa nhận đã bán trái phép chất ma tuý cho N 03 lần, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 30/9/2017, N đi bộ một mình đến nhà H và hỏi mua Heroin. H đồng ý và bán cho N 01 gói ma tuý Heroin được gói bằng nilon màu trắng bên trong là gói giấy màu trắng mặt ngoài có in nhiều dòng kẻ, chữ và số màu đen với giá 200.000đ. N cầm gói ma tuý và đi về.

- Lần thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 01/10/2017, N đi bộ một mình đến nhà H và tiếp tục hỏi mua của H 01 gói ma tuý Heroin với giá 300.000đ. H đồng ý và đã bán cho N 01 gói ma tuý được gói bằng nilon màu trắng bên trong là gói giấy màu trắng mặt ngoài có in nhều dòng kẻ, chữ và số. N cầm gói ma tuý và đi về.

- Lần thứ ba: Khoảng 17 giờ ngày 01/10/2017, N đến nhà và hỏi mua của H 01 gói ma tuý Heroin với giá 300.000đ. H đã bán cho N 01 gói ma tuý được gói bằng nilon màu trắng bên trong là gói giấy màu trắng mặt ngoài có in nhều dòng kẻ, chữ và số. N cầm gói ma tuý và đi về.(BL 40-51; BL 64-65).

Quá trình điều tra, Nguyễn Như H thay đổi lời khai và khai nhận chỉ bán trái phép chất ma tuý cho Trần Thị Minh N 01 (một) lần duy nhất diễn ra vào ngày 01/10/2017. Cụ thể: Khoảng 17 giờ ngày 01/10/2017, H đang ở nhà thì N đi bộ một mình đến. N hỏi mua 300.000đ tiền ma tuý Heroin. H nảy sinh ý định bán ma tuý cho N để kiếm lời nên đồng ý. H cầm tiền và đưa lại cho N 01 gói ma tuý Heroin được bọc ngoài bằng nilon, bên trong được gói bằng giấy mặt ngoài màu trắng có in nhiều chữ, số, dòng kẻ màu đen. N cầm gói ma tuý rồi đi về (BL 52-63).

Về nguồn gốc số ma tuý đã bán cho N và số ma tuý bị thu giữ: H khai mua của Nguyễn Minh Lượng sinh năm 1972 trú tại thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái vào khoảng 13 giờ ngày 30/9/2017 với giá 1.400.000đ. H đã sử dụng cho bản thân 02 lần rồi chia ra làm các gói nhỏ cất giữ trên người, H đã bán cho N 01 gói ma tuý, 07 gói ma tuý còn lại H cất giấu trên người với mục

đích để sử dụng cho bản thân và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời. Ngoài ra H khai nhận vào ngày 25/9/2017 H mua của Lượng 1.000.000đ tiền ma tuý Heroin, H đã sử dụng hết cho bản thân.

Ngày 19/1/2017, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất lại giữa Nguyễn Như H và Trần Thị Minh N. H chỉ thừa nhận việc đã bán trái phép chất ma tuý cho N 01 (một) lần vào khoảng 17 giờ ngày 01/10/2017. Quá trình mua bán ma tuý giữa H và N không có ai khác biết và tham gia cùng.(BL 66-67).

Tại bản kết luân điều tra vụ án hình sự số: 18 ngày 23/01/2018, Cơ quan điều tra xác định: Hành vi của Nguyễn Như H bán trái phép chất ma tuý cho Trần Thị Minh N 01 lần, tàng trữ 0,7236 gam ma tuý Heroin nhằm để sử dụng và bán cho người nghiện cấu thành tội Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý quy đinh tại khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2018/HSST ngày 08/3/2018 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ đã áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Như H phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Nguyễn Như H 05 (năm năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/10/2017.

Bản án tuyên về án phí và các vấn đề khác đúng pháp luật. Ngày 13/3/2018 bị cáo Nguyễn Như H kháng cáo đề nghị xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Như H. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2018/HSST ngày 08/3/2018 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Như H trong hạn luật định được xem xét giải quyết.

[2] Về nội dung vụ án: Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận đã có hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của Trần Thị Minh N, phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ cho rằng: Nguyễn Như H đã bán trái phép cho Vũ Thị Minh N 01 lần 01 gói heroin và cất giữ 0,7236 gam Heroin với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội, không oan, phù hợp với quy định của pháp luât.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm tình tiết, chứng cứ nào mới để làm căn cứ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặc khác, bản thân bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng là “tái phạm” đã bị 04 lần bị kết án, bị cáo không lấy đó làm bài học để trở thành một công dân có ích mà lại tiếp tục phạm tội.

Trong tình hình hiện nay, tội phạm về ma túy tiếp tục có những diễn biến phức tạp, là mầm mống phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác nên việc áp dụng mức phạt nghiêm khắc 05 năm tù là cần thiết để bị cáo có thời gian suy ngẫm, cải tạo trở thành người công dân có ích đồng thời có tác dụng nêu gương, răn đe, phòng ngừa tội phạm trong xã hội.

Do đó, Hội đồng xét xử không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo được.

[4] Xét để nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Phú Thọ tại phiên tòa phù hợp nên chấp nhận.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Như H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị; Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Như H. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2018/HSST ngày 08/3/2018 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

[2] Tuyên bố: Nguyễn Như H phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Nguyễn Như H 05 (Năm) tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/10/2017.

[3] Về án phí: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Như H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HSPT ngày 22/05/2018 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về