Bản án 31/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 06/04/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2018/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2018 đối với các với bị cáo:

1. Nguyễn Văn H; tên gọi khác: T; sinh năm 1976, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị H; vợ Trương Hồng Đ; con có 02 người; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt tạm giam ngày 11-12-2017 đến ngày 05-02-2018 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh “có mặt”.

2. Nguyễn Hoài L; tên gọi khác: T; sinh năm 1996, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam con ông Nguyễn Văn H (là bị cáo trong vụ án) và bà Trương Hồng Đ; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có “có mặt”.

- Người bị hại: Ông Hồ Văn L; sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh “có mặt”

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Q; sinh năm: 1955; nơi cứ trú: ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 4-2017, anh Hồ Văn L và chị Trương Hồng Đ là vợ bị cáo Nguyễn Văn H có lén lút quan hệ tình dục với nhau, bị chị Nguyễn Thị T là vợ anh L phát hiện, chị T báo cho bà Nguyễn Thị H là mẹ bị cáo H biết nhưng bà H không tin và không nói cho bị cáo H biết.

Khoảng 12 giờ ngày 17-9-2017, chị T gọi điện thoại báo cho bà H biết là anh L và chị Đ đang hẹn gặp nhau tại thị trấn G nên bà H gọi điện thoại báo lại bị cáo H biết. Bị cáo H điều khiển xe môtô biển số 70L 1-392.01 đi tìm nhưng không gặp. Sau đó bị cáo hỏi anh Nguyễn Châu P là con nuôi của bị cáo thì được biết chị Đ đang đi cùng anh L.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, khi chị Đ gọi điện thoại báo cho anh P biết đang khám bệnh ở phòng khám bác sĩ T sắp xong và kêu anh P đến chợ G để đón chị Đ. Nghe vậy, bị cáo H gọi bị cáo L điều khiển xe môtô biển số 70L 1-392.01 chở bị cáo H đi tìm chị Đ thì bị cáo L đồng ý. Khi đến trước Trung tâm Y tế huyện G, bị cáo H nhìn thấy chị Đ đang ngồi chờ khám bệnh và đang nói chuyện với anh L nên bị cáo H kêu bị cáo L dừng xe để quan sát. Lúc này, lúc này bị cáo H nảy sinh ý định đánh anh L nên rủ bị cáo L cùng đi đánh thì bị cáo L đồng ý.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, anh L điều khiển xe môtô biển số 70L1- 002.03 chở chị Đ chạy về hướng vòng xoay thị trấn G. Thấy vậy, bị cáo H nhặt 01 đoạn cây ven đường, rồi kêu bị cáo L điều khiển xe chở bị cáo H đuổi theo. Khi đến Vựa cây kiểng L thuộc khu phố R, thị trấn G, bị cáo H kêu anh L dừng xe, còn bị cáo L dùng chân đạp vào phía sau xe của anh L nhưng xe không ngã. Chị Đ quay lại thấy bị cáo L và bị cáo H nên nhảy xuống xe bỏ chạy. Bị cáo L điều khiển xe chặn đầu xe của anh L. Bị cáo H xuống xe cầm đoạn cây dài 80 cm đánh 03 cái vào người của anh L, nhưng anh L đưa hai tay lên đỡ làm gãy đoạn cây. Bị cáo L lấy mũ bảo hiểm đánh 03 cái trúng vào mặt và mũi của anh L chảy máu. Thấy vậy, bị cáo H can ngăn bị cáo L, rồi cả hai chạy xe về nhà. Sau đó, anh L được đưa đến trung tâm Y tế huyện G điều trị đến ngày 25-9-2017 thì xuất viện.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 197/2017/TgT ngày 18-10-2017 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Tây Ninh kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Hồ Văn L gồm 01 vết sẹo ở bên trong và bên ngoài môi trên bên trái, gãy xương chính mũi, gãy 1/3 giữa xương trụ phải trục thẳng và gãy xương bàn IV bàn tay trái, do thương tích gây nên hiện tại là 20%.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 xe môtô biển số 70L 1-392.01, đã trả lại cho anh Nguyễn Văn L; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, sim 1 số 01626876278, sim 2 số 0933433868, đã trả lại cho anh L. Hiện đang thu giữ 01 đoạn gỗ dài 42 cm, đường kính 4 cm, một đầu vạt nhọn, đầu còn lại gãy nham nhở; 01 đoạn gỗ dài 38cm, đường kính 4cm, đầu bị gãy nham nhở; 02 mảnh vỡ mũ bảo hiểm màu xanh trắng, 01 dây mũ bảo hiểm bằng vải màu đen có gắn nhựa, 01 mảnh vỡ mút xốp mũ bảo hiểm và 01 mút xốp mũ bảo hiểm lót vải màu đen có vết vỡ; 01 chiếc dép chân trái loại quai kẹp, có chữ “Bade made in Viet Nam”.

Về bồi thường thiệt hại: Gia đình của bị cáo H và bị cáo L đã bồi thường cho anh L 40.000.000 đồng, anh L làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKSGD ngày 23-02-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Hoài L về tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 02 năm đến 03 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04-05 năm tính từ ngày tuyên án; căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04-05 năm tính từ ngày tuyên án. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng vì không còn giá trị sử dụng.

Các bị cáo và bị hại không có tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Hoài L đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, các chứng cứ có trong hồ sơ cùng lời luận tội của Kiểm sát viên. Từ đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội của các bị cáo cụ thể như sau:

Do ghen tuông vì vợ bị cáo Nguyễn Văn H là chị Trương Hồng Đ có quan hệ nam nữ bất chính với anh Hồ Văn L. Khoảng 19 giờ ngày 17-9-2017, tại khu phố R, thị trấn G, bị cáo Nguyễn Văn H cùng con trai là bị cáo Nguyễn Hoài L đã dùng đoạn cây và mũ bảo hiểm đánh anh Hồ Văn L gây thương tích 20%. Các bị cáo dùng cây và mũ bảo hiểm gây thương tích cho bị hại nên thuộc tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Vì thương tích mà bị cáo gây ra cho bị hại có tỷ lệ thương tật là 20% và thuộc trường hợp quy định tại điểm a như nhận định trên, nên hành vi phạm tội của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác trái pháp luật, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo; các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại để khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo. Bị cáo H có bà ngoại được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì. Bị hại cũng có lỗi do quan hệ bất chính với vợ của bị cáo H và mẹ của bị cáo L, từ đó các bị cáo bức xúc và thiếu kiềm chế nên dẫn đến việc vi phạm pháp luật hình sự. Trên đây là những tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo được quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ và vai trò phạm tội của từng bị cáo, thấy rằng: Hai bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn do không có sự cấu kết chặt chẽ, bàn bạc phân công nhiệm vụ từ trước. Bị cáo H là người rủ bị cáo L và cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi dùng cây đánh anh L; đối với bị cáo L dùng mũ bảo hiểm đánh anh L nên bị cáo H phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo L.

Từ những nhận định trên xét thấy cả hai bị cáo đều có nhân thân tốt, có địa chỉ cư trú rõ ràng, bị cáo H có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (bị hại cũng có lỗi, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và gia đình có công với cách mạng). Bị cáo Linh có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (bị hại cũng có lỗi, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo). Căn cứ Điều 65 Bộ luật Hình sự và khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06 tháng 11 năm 2013 của hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về án treo thì 02 bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt tù và cho 02 bị cáo được hưởng án treo là đúng theo quy định của pháp luật.

Việc quyết định hình phạt đối với 02 bị cáo như nhận định trên là tương xứng với tính chất mức độ và hành vi phạm tội của từng bị cáo, đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[4] Xét lời luận tội và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu là phù hợp nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

[5] Về biện pháp tư pháp: Ghi nhận ông Q là cha bị cáo H và là ông nội bị cáo L đã bồi thường cho bị hại số tiền 40.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết. Ông Q tự nguyện bồi thường và không có yêu cầu gì đối với 02 bị cáo nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận.

Đối với các vật chứng hiện đang thu giữ đều không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Hoài L phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án 06-4-2018.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài L 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án 06-4-2018.

Giao 02 bị cáo về cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

- Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn gỗ dài 42 cm, đường kính 4 cm, một đầu vạt nhọn, đầu còn lại gãy nham nhở; 01 đoạn gỗ dài 38cm, đường kính 4cm, đầu bị gãy nham nhở; 02 mảnh vỡ mũ bảo hiểm màu xanh trắng, 01 dây mũ bảo hiểm bằng vải màu đen có gắn nhựa, 01 mảnh vỡ mút xốp mũ bảo hiểm và 01 mút xốp mũ bảo hiểm lót vải màu đen có vết vỡ; 01 chiếc dép chân trái loại quai kẹp, có chữ “Bade made in Viet Nam”.

Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu đang quản lý.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 06/04/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về