Bản án 31/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN NAM HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2018/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Tấn P, sinh ngày 20/3/1981 tại ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Kiên Giang. Nơi cư trú: Ấp B, xã V, huyện V Thuận, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T và bà Phạm Thị Đ; có vợ tên Nguyễn Thị Kim S và 02 người con, lớn sinh năm 2006 nhỏ sinh năm 2009; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/10/ 2006 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 09/01/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh (Xét xử phúc thẩm) xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 05/01/2012 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là các án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/9/2018 đến ngày 14/9/2018 chuyển sang tạm giam cho đến nay (Bị cáo có mặt).

- Bị hại: Ông Phạm Văn V, sinh năm 1951

Nơi cư trú: Khu phố n, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 06/9/2018, Huỳnh Tấn P đi xe buýt từ huyện V về  hướng R, khi đến khu vực đầu lộ tuyến tránh thuộc thị trấn T huyện A thì xuống xe P nhìn vào quán cà phê thấy có 01 chiếc xe Wave màu đỏ đậu trong quán nên nảy sinh ý định trộm cắp. P giả bộ vào quán uống nước chờ cơ hội để lấy trộm, trong lúc uống nước P quan sát thấy trên xe có sẵn chìa khóa. P ngồi uống nước khoảng 20 phút, đến khoảng 10 giờ 20 phút thấy nhân viên quán cà phê không để ý P lén quay đầu và mở khóa điều khiển xe 68B1-290.16 chạy về hướng cầu T rồi rẽ vào hướng đi xã Đ, huyện A. Lúc này ông V phát hiện bị mất trộm nên truy hô và gọi báo Công an huyện A tiến hành chốt chặn bắt giữ Huỳnh Tấn Pc cùng với chiếc xe 68B1-290.16 tại khu phố n, thị trấn T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐC ngày 11/9/2018 của hội đồng định giá tài sản huyện A kết luận:

- 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, số loại Wave, biển kiểm soát 68B1- 290.16, số máy JA39E0118763, số khung 3908HY118705, trị giá 16.500.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm ngàn đồng).

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A thu giữ và đã trả lại cho bị hại Phạm Văn V gồm: 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, số loại Wave, màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 68B1-290.16, số máy JA39E0118763, số khung 3908HY118705.

Tại bản cáo trạng số 30/CTr-VKS ngày 15/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Huỳnh Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã nêu, bị cáo xác định khi xuống xe buýt phát hiện chiếc xe Wave đang đậu trong quán P nảy sinh ý định trộm cắp nên đã vào quán ngồi uống nước chờ thời cơ. Đến khoảng 10 giờ 20 phút ngày 06/9/2018 khi thấy nhân vên trong quán không để ý P đã lén đến chỗ chiếc xe quay đầu và mở khóa xe chạy về hướng T rồi rẽ vào Đ thì bị lực lượng công an đuổi bắt được người cùng chiếc xe lấy trộm. Bị cáo thống nhất với kết quả định giá về tài sản do bị cáo trộm cắp.

Người bị hại - ông Phạm Văn V xác định đã nhận lại được tài sản bị mất, không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo P về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 ; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo P từ 09 (Chín) tháng tù đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

Trong phần tranh luận: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không có tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin lỗi người bị hại và hứa từ nay sẽ không tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa đã làm rõ: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân, nên khoảng 10 giờ 20 phút ngày 06/9/2018, tại khu phố n, thị trấn T, huyện A lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu Huỳnh Tấn P đã lén lút lấy trộm của ông Phạm Văn V 01 chiếc xe Honda Wave biển kiểm soát 68B1-290.16. Trên đường tẩu thoát P đã bị Công an chốt chặn bắt giữ người cùng vật chứng.

Theo kết luận định giá giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp có giá trị là 16.500.000 đồng.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên đã truy tố bị cáo Huỳnh Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thể hiện: Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi hình sự, có đủ khả năng để nhận thức tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là bất khả xâm phạm nhưng do lười biếng lao động chân chính, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu đã cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân; hành vi của bị cáo gây mất trật tự an toàn ở địa phương, xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở hữu tài sản.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có cha là ông Huỳnh Văn T được nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng ba, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, từ năm 2006 đến nay liên tục bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh, Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Tây Ninh, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh đều xét xử về các hành vi chiếm đoạt tài sản. Cụ thể: Ngày 31/10/ 2006 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; ngày 22/9/ 2011 và ngày 09/01/2012 bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Tây Ninh và Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 05/01/2012 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đến nay bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Từ năm 2006 cho đến nay bị cáo liên tục có các hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, dù ở lần phạm tội nào bị cáo cũng bị tuyên phạt một mức án nhằm giáo dục cải tạo bị cáo sống biết tuân thủ pháp luật nhưng sau mỗi lần mãn hạn tù bị cáo không lấy đó làm bài học để sống tốt hơn mà tiếp tục trở lại con đường cũ, không thể hiện sự ăn năn hối cải, sự hoàn lương và sự tiến bộ trong nhận thức. Dù đã được xóa án tích và trong lần phạm tội này có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng vẫn phải xem xét xử phạt bị cáo một mức án đủ nghiêm khắc để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Phạm Văn V đã nhận lại tài sản bị mất gồm: 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, số loại Wave, màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 68B1-290.16, số máy JA39E0118763, số khung 3908HY118705, tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

 [6] Các vấn đề khác:

Trong quá trình điều tra Huỳnh Tấn P còn khai nhận vào ngày 04/9/2018 đã lấy trộm 01 chiếc xe Attila biển kiểm soát 70L1-188.74 tại xã G, huyện T, tỉnh Tây Ninh rồi đem đi cầm tại tiệm cầm đồ V có địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang được 6.500.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Biên đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn P 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ ngày 06 tháng 9 năm 2018.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Phạm Văn V đã nhận lại tài sản bị mất gồm: 01 xe mô tô, nhãn hiệu HONDA, số loại Wave, màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 68B1-290.16, số máy JA39E0118763, số khung 3908HY118705, tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Huỳnh Tấn P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại đều có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về