Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 80/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXX-ST ngày 26/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/QĐST-HNGĐ ngày 12/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nhiếp Như Q, sinh năm 1993.

Nơi ĐKHKTT: thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ: thôn B, xã T, huyện T1, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình. (Chị Q và anh T đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nhiếp Như Q trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh T tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 06/9/2013 tại UBND xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng mẹ anh T ở thôn N, xã H. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, nguyện nhân do vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con, anh T hay đi chơi bời cùng bạn bè, có hôm đi từ tối đến sáng mới về nhà. Ngày 16/4/2019, chị Q về nhà bố mẹ chị ở thôn B, xã T, huyện T1, tỉnh Hà Nam sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian chị Q về nhà bố mẹ đẻ, anh T có nhắn tin, gọi điện thoại nhưng chị không nghe máy. Nay chị Q nhận thấy chị không thể tiếp tục chung sống cùng anh T nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

- Về quan hệ con chung: Chị và anh T không có con chung.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn - anh Nguyễn Văn T trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn đúng như chị Q trình bày. Theo anh T vợ chồng anh chị thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn nhỏ, cãi nhau, nguyên nhân là do vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con, vợ chồng cũng đã đi khám và điều trị nhưng không có kết quả. Anh T cũng đã động viên chị Q cố gắng vợ chồng tiếp tục chữa bệnh nhưng đến tháng 4/2019 thì chị Q xin phép gia đình anh về nhà bố mẹ đẻ ở tỉnh Hà Nam sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Từ khi chị Q đi, anh T đã gọi điện thoại, nhắn tin cho chị Q nhưng chị Q không trả lời. Nay chị Q xin ly hôn thì anh không đồng ý. Vợ chồng anh không có con chung. Vợ chồng anh không có tài sản chung, không vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia phiên họp và phiên tòa không những tự tước bỏ quyền, nghĩa vụ của mình mà còn thể hiện ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự không nghiêm túc, đầy đủ. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho chị Q được ly hôn anh T.

Về quan hệ con chung: Không có Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, chị Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả thảo luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về thủ tục tố tụng: Chị Q xin ly hôn anh T, cả hai anh chị đều đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại UBND xã Hồng Tiến huyện Kiến Xương nên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và tài sản chung vợ chồng, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Q kết hôn với anh T trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Chị Q và anh T đều khai vợ chồng có mâu thuẫn do vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con. Chị Q xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn nhưng anh T không có biện pháp tích cực gì để cải T tình cảm vợ chồng. Tòa án đã triệu tập để hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhưng anh T vắng mặt. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị Q và anh T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận xử cho chị Q được ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Không có.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị Q và anh T đều khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản.

[6] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nhiếp Như Q được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về quan hệ con chung: không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nhiếp Như Q phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001324 ngày 17/5/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị Nhiếp Như Q đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyển kháng cáo: Chị Q, anh T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 19/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về