Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82/2019/TL.ST-HNGĐ, ngày 14 tháng 3 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64B/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc H (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Trường Th, xã Trường Long T, huyện Châu Th, tỉnh H.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc Đ (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Trường Th, xã Trường Long T, huyện Châu Th, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 13/3/2019 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc H trình bày: Bà H và ông Nguyễn Ngọc Đ tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật vào năm 2016. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng bà không còn sống chung với nhau khoảng 02 năm. Bà H xác định không thể tiếp tục duy trì được quan hệ hôn nhân nên yêu cầu ly hôn với ông Đ. Về con chung: Bà H và ông Đ có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Anh Th (nữ), sinh ngày 20/6/2017. Cháu Th hiện đang sống với bà H. Bà H yêu cầu được nuôi cháu Th và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà H yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải và có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Ngọc Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên chưa ghi nhận được ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Xác định việc thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ cũng như thủ tục tố tụng tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Về nội dung giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 51; Điều 56, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Đ; về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Anh Th (nữ), sinh ngày 20/6/2017 cho bà H nuôi dưỡng, ông Đ chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Lê Thị Ngọc H khởi kiện ông Nguyễn Ngọc Đ yêu cầu được ly hôn và nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp là ly hôn và nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt và nguyên đơn có yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn và nguyên đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà H, ông Đ xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp trên cơ sở giấy đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống giữa bà H, ông Đ phát sinh mâu thuẫn. Bà H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung. Bà H, ông Đ hiện đã không còn chung sống với nhau 02 năm. Bà H xác định không còn tình cảm, không thể hàn gắn với ông Đ nên cương quyết ly hôn. Quá trình tố tụng, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Đ để động viên hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông Đ không đến Tòa án. Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy, mâu thuẫn giữa bà H, ông Đ là trầm trọng, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con chung của bà H, Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Th từ nhỏ đã sống chung với gia đình bà H, sau khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu Th do bà H trực tiếp nuôi dưỡng và đến thời điểm xét xử thì cháu Th có độ tuổi dưới 36 tháng tuổi. Hiện tại chưa ghi nhận được ý kiến của ông Đ về yêu cầu nuôi con chung. Do đó, nhằm ổn định cuộc sống và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng đối với cháu Th nên giao cháu Th cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Bà H chưa có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên ông Đ chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ông Đ có quyền thăm nom, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định không có, không yêu cầu giải quyết. Nếu sau này giữa bà H, ông Đ phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án khác.

[6] Từ những tình tiết, chứng cứ nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà H phải chịu án hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc Đ.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Anh Th (nữ), sinh ngày 20/6/2017 cho bà Lê Thị Ngọc H nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Nguyễn Ngọc Đ chưa có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ông Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết, nếu sau này phát sinh tranh chấp đương sự có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Ngọc H phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng). Chuyển 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai số 0018755 ngày 13 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành A thành tiền án phí dân sự sơ thẩm (bà H đã nộp xong).

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về