Bản án 31/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí  Minh  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  sơ  thẩm  thụ  lý  số:27/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS, ngày 28 tháng 02 năm  2019 đối với bị cáo: Võ Trường T, sinh năm: 1996, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: số 475/43/5 đường C, Phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: số 24/9/6 đường T, phường L, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nghệ sỹ cải lương; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông không rõ và bà Võ Lệ T; Chưa có vợ; tiền án:không; tiền sự: không; tạm giam ngày: 30/10/2018; (Có mặt).

 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thượng H, sinh năm: 1969; trú tại: thôn M, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; (Vắng mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Kiều N, sinh năm: 1995; trú tại: thôn M, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: số 448/45 đường P, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ, ngày 25/10/2018, T một mình đến quán bar 162 đường Nguyễn Văn Lượng, quận Gò Vấp. Tại đây, T mua được 01gói nylon chứa ma túy tổng hợp dạng khay; 01gói ma túy tổng hợp dạng khay được gói bằng 02 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng; 01 gói nylon chứa mảnh vỡ viên thuốc lắc màu xanh của một thanh niên không rõ lai lịch với giá tiền 1.700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T cất toàn bộ số ma túy vừa mua vào chiếc túi đeo ngực màu đen của T rồi sau đó đem về nhà. Khoảng 17 giờ, ngày 30/10/2018, T mang theo chiếc túi bên trong có 01gói nylon chứa ma túy tổng hợp dạng khay; 01 gói ma túy tổng hợp dạng khay được gói bằng 02 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng; 01 gói nylon chứa mảnh vỡ viên thuốc lắc màu xanh, điều khiển xe máy biển số 76F1-158.18 chạy đi công việc, khi T chạy xe đến giao lộ đường Quang Trung và Phạm Văn Chiêu, quận Gò Vấp thì bị Tổ CSGT đang làm nhiệm vụ tại giao lộ dừng xe kiểm tra, sau đó đưa vào trụ sở Công an phường 12, quận Gò Vấp kiểm tra túi đeo của T thì phát hiện trong túi có cất giấu 01gói nylon chứa tinh thể không màu; 01 gói chất bột màu trắng được gói bằng 02 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng; 01 gói nylon chứa mảnh vỡ viên nén màu xanh nên lập biên bản tạm giữ, niêm phong toàn bộ số ma túy của T, bắt giữ T lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp, Võ Trường T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

-  01 gói chất bột màu trắng được gói bằng 02 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng (m1); 01gói nylon chứa tinh thể không màu (m2); 01 gói nylon chứa một mảnh vụn viên nén màu xanh (m3) tất cả được niêm phong thành một gói, bên ngoài có chữ kí ghi tên Võ Trường T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp. Tại bản kết luận giám định 1781/KLGĐ-H ngày 06/11/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận:

+ Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7127 gam, loại Ketamine.

+ Tinh thể không màu được lý hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1, 3322 gam, loại Ketamine.

+ 01 mảnh vụn viên nén màu xanh được ký hiệu  mẫu m3 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2403 gam, loại MDMA.(BL: 33).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen số sim 0933190751.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng số sim 0931456768.

- 01 chiếc xe gắn máy có biển số 76F1-158.18 qua xác minh chiếc xe máy trên do ông Nguyễn Thượng H là chủ sở hữu. Ông H khai đã giao chiếc xe nói trên cho con gái tên Nguyễn Thị Kiều N sử dụng, hiện N đang làm việc tại Thành phố Hồ chí Minh. Võ Trường T khai mượn chiếc xe trên của chị Nguyễn Thị Kiều N để đi công việc và chị N đồng ý, sau đó bị bắt và tạm giữ xe. Chị N khai cho Võ Trường T mượn xe để đi công việc, chị N không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho T (không rõ lai lịch) khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 36/CTr-VKS, ngày 13/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Võ Trường T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Võ Trường T từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo. 

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại hiệu Iphone màu trắng số sim 0931456768 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen số sim 0933190751 .

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kiều N chiếc xe gắn máy biển số 76F1-158.18.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]  Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Võ Trường T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

 [2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội.

Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng...... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

 [3] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt bị cáo.

 [4] Về xử  lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Trường T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp là vật nhà nước cấm lưu hành và sử dụng Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với một chiếc xe biển số 76F1-158.18, số máy: JF58E-0816087, số khung: RLHJF5807EY-816037. Qua xác minh do ông Nguyễn Thượng H là chủ sở hữu. Ông H khai đã giao chiếc xe này cho con gái tên Nguyễn Thị Kiều N sử dụng, hiện N đang làm việc tại TP. Hồ chí Minh. Võ Trường T khai mượn chiếc xe trên của chị Nguyễn Thị Kiều N để đi công việc và chị N đồng ý, chị N khai cho Võ Trường T mượn xe máy biển số số 76F1-158.18 để đi công việc, chị N không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án nên quyết định trả chiếc xe cho chị Nguyễn Thị Kiều N.

- Đối với 02 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone một màu trắng có số sim 0931456768 và một 01 điện thoại Iphone màu đen số sim 0933190751 là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho Võ Trường T.

 [5] Đối với người thanh niên bán ma túy cho T (không rõ lai lịch) khi xác định được sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Trường T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Võ Trường T 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 30/10/2018.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm2015;

- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Trường T và hình dấu Công an phường 12, quận Gò Vấp.

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kiều N chiếc xe gắn máy mang biển số 76F1- 158.18, số máy: JF58E-0816087, số khung: RLHJF5807EY-816037.

- Trả lại cho bị cáo chiếc di động hiệu Iphone màu trắng số sim 0931456768và 01 điện thoại Iphone màu đen số sim 0933190751.  (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 02/PNK, ngày 09/01/2019 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 13/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về