Bản án 31/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 24/2019/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2019, về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn B; sinh ngày 26/4/1970; Nơi cư trú: E4-3/19 ĐTCL, phường 10, thành phố VT, tỉnh BR-VT; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Tài xế; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn R (chết) và bà Lê Thị T (Chết); Vợ tên Huỳnh Thị C, sinh năm 1971 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được cho tại ngoại để điều tra, bị cáo có mặt tại phiên tòa. Người bị hại:

1/ Anh Trần Thanh Th; sinh năm 1988 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp cho gia đình người bị hại: Ông Trần Văn L; sinh năm 1962 (cha ruột bị hại) (có mặt).

2/ Anh Lê Hảo H; sinh năm 1998 (có mặt).

Cùng Trú tại: ấp HA, xã MT, huyện CT, tỉnh KG.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quốc C1 (T A); sinh năm 1968 (có mặt).

Trú tại: D6/36 ấp 4, xã BC, huyện BC, TP. HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn B là tài xế xe ôtô khách A Q. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 11 tháng 11 năm 2018, B điều khiển xe ô tô khách A Q biển số kiểm soát 51B-001.62 chở 21 người khách đi từ huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang đến thành phố Hồ Chí Minh. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi xe đang lưu thông trên Quốc Lộ 80 đoạn đường thuộc ấp Hòa An, xã Mong Thọ B, huyện Châu Thành do đã khuya, đoạn đường vắng nên B cho xe chạy với vận tốc khoảng 60- 70 Km/h và chạy giữa đường dẫn đến xe lấn sang phần đường bên trái. Lúc này B thấy phía trước bên lề phải xe của B có xe môtô biển kiểm soát 68C1-306.82 do anh Lê Hảo H (không có giấy phép láy xe theo quy định) điều khiển chở anh Trần Thanh Th ngồi phía sau, xe đang đi từ lề phải sang lề trái. Do xe của B điều khiển đang chạy lấn sang phần đường bên trái và chạy với tốc độ cao nên phần đầu xe bên trái của ôtô va chạm vào phần sau xe môtô do anh H điều khiển lúc này đã ở trên phần đường bên trái. Tai nạn xảy ra làm xe môtô ngã văng vào lề đường, anh H bị thương nhẹ, anh Th bị thương nặng và tử vong trên đường đi cấp cứu.

Ti biên bản khám nghiệm và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra ngày 11 ngày 11 năm 2018 đã thể hiện:

- Chọn hướng từ Rạch Sỏi đi Tân Hiệp làm chuẩn để đo các dấ u vết vào mép đường bên trái. Chọn cột điện số 477CS/95 làm vật chuẩn.

- Mặt đường Quốc lộ 80 nơi xảy ra tai nạn rộng 9,5m; khô ráo, bằng phẳng.

- Hiện trường để lại 02 vết cày phanh, vết thứ nhất dài 20,13m đầu vết phanh cách vật chuẩn 18,15m và cách lề phải 4,98m, cuối vết phanh cách lề phải 4,93m; vết thứ hai dài 10,20m đầu vết phanh cách đầu vết phanh thứ nhất 7,50m và cách lề phải 5,97m, cuối vế cày cách lề trái 6,35m

- Hiện trường để lại 1 vết cày dài 7,70m đầu vết cày cách lề phải 5,97m, cuối vết cày là vị trí xe mô tô BSKS 68C1-306.82 ngã;

- Chiếc xe môtô BSKS 68C1-306.82 ngã, nằm bên trong lề trái, Trục bánh xe sau cách lề phải 10,71m, trục bánh trước và trục bánh sau của xe nằm trên vết cày.

- Chiếc xe ô tô biển số kiểm soát 51B-00162, đã di chuyển so với lúc gây tai nạn, nơi xe dừng tại thời điểm khám nghiệm là lề phải, đầu xe quay về hướng Tân Hiệp, Trục sau bánh xe bên phải đo vào lề phải là 2,81m và đo đến vị trí trục sau xe mô tô 68C1-30682 là 36,70m.

Ti Bản kết luận giám định Pháp y tử thi số: 1030/KL-KTHS ngày 21 tháng 11 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Anh Trần Thanh Th; sinh năm 1988, địa chỉ ấp HA, xã MT, huyện CT, tỉnh KG tử vong do chấn thương sọ não.

Trong vụ án này bị cáo Nguyễn B sau khi gây án đã đến cơ quan Công an để thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị c áo đã tích cực khắc phục hậu quả cho bị hại.

Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ, hướng xử lý vật chứng gồm:

- 01 xe ô tô biển số kiểm soát 51B-001.62, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số kiểm soát 51B-001.62 và 01 giấy chứng nhận Kiểm định biển số kiểm soát 51B- 001.62, trong quá trình điều tra xác định đây là xe của ông Nguyễn Quốc C1 cho nên đã trã lại các vật chứng trên cho chủ sở hữu.

- 01 xe mô tô, nhãn hiệu Honda, số loại Vision, biển số 68C1-306.82 đã trã lại cho trong quá trình điều tra xác định đây là xe của ông Trần Văn L cho nên đã trả lại các vật chứng trên cho chủ sở hữu.

- Một giấy phép lái xe hạn E số 770119002380 của Nguyễn B do Sở giao thông vận tải tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp, sẽ đề nghị trả lại cho Nguyễn B.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra vụ án, bị cáo Nguyễn B đã cùng với chủ xe thỏa thuận bồi thường cho gia đình nạn nhân anh Nguyễn Thanh Th tổng số tiền là 105.000.000 đồng, hiện nay đại diện gia đình nạn nhân anh Nguyễn Thanh Th là ông Trần Văn L không có yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho bị cáo. Riêng người bị hại anh Lê Hảo H bị thương nhẹ vào không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Số tiền 105.000.000 đồng của bị cáo B bồi thường cho gia đình anh Th là tiền do ông Nguyễn Quốc C1 hỗ trợ cho B để bồi thường. Đối với số tiền này ông C1 không có yêu cầu B phải trả lại nên không xem xét.

Đi với phần thiệt hại về tài sản là chiếc xe ô tô bị hư hỏng do tai nạn. Anh Nguyễn Quốc C1 không yêu cầu Công ty Bảo hiển tham gia và không yêu cầu B phải bồi thường, vì vậy không xem xét.

Đi với hành vi điều khiển xe không có giấy phép lái xe theo quy định của Lê Hảo H, quá trình điều tra xác định đây là lỗi hành chính không phải là nguyên nhân dẫn đến tai nạn làm cho anh Th bị tử vong. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã đề nghị Đội cảnh sát giao thông Công an huyện Châu Thành xử lý hành chính đối với H theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-CT ngày 08/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn B về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn B phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn B từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

Về biện pháp tư pháp đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử trả lại cho Nguyễn B 01 giấy phép lái xe hạn E số 770119002380 của anh Nguyễn B do Sở giao thông vận tải tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 12/01/2015.

Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp cho gia đình người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo thành thật xin lỗi gia đình người bị hại, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Vào khoảng 23 giờ, ngày 11/11/2018 Nguyễn B điều khiển xe ôtô khách mang biển số kiểm soát 51B-001.62 lưu thông trên Quốc Lộ 80 khi đến đoạn đường thuộc ấp Hòa An, xã Mong Thọ B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, B cho xe chạy giữa đường lấn sang phần đường bên trái dẫn đến không làm chủ được tay lái đụng vào xe môtô mang biển kiểm soát 68C1-306.82 do anh Lê Hảo H điều khiển xe chở phía sau anh Trần Thanh Th đang qua đường đi từ lề phải sang lề trái (lúc này xe anh H đang ở phần đường bên trái với xe bị cáo). Tai nạn xảy ra làm cho anh Th bị thương nặng và tử vong trên đường đi cấp cứu, còn anh H thì bị thương nhẹ. Đối chiếu tại khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ thì “Người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”, đồng thời căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự thì

“Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;…

Như vậy, hành vi điều khiển xe chạy lân sang phần đường bên trái không đúng quy định, gây ra tai nạn giao thông làm cho 01 người chết của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” như đã viện dẫn nêu trên.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã gây ảnh hưởng đến sự an toàn của hoạt động giao thông đường bộ và gây ra hậu quả nghiêm trọng làm cho một người bị tử vong. Bản thân bị cáo nhận thức được việc điều khiển xe chạy lấn sang phần đường bên trái là vi phạm luật giao thông đường bộ. Thế nhưng khi điều khiển xe đêm tối, ít người qua lại bị cáo lại chủ quan điều khiển xe chạy nhanh và lấn sang phần đường bên trái dẫn đến không làm chủ được tay lái đụng vào xe mô tô mang biển kiểm soát 68C1 -306.82 do anh H chở phía sau anh Th đang điều khiển xe qua hết phần lộ bên phải và nằm về phần đường bên trái, hậu quả làm cho anh Th tử vong trên đường đi cấp cứu do chấn thương sọ não, còn anh H thì bị thương nhẹ. Từ việc không chấp hành nghiêm luật giao thông đường bộ của bị cáo đã làm cho gia đình người bị hại phải mất đi một người thân đây là tổn thất lớn nhất về mặt tinh thần mà gia đình người bị hại phải gánh chịu. Nếu bị cáo chấp hành nghiêm luật giao thông đường bộ khi tham gia phương tiện giao thông thì không phải chịu sự nghiêm trị của pháp luật. Với hành vi phạm tội nêu trên, HĐXX nghị án thảo luận cần có một mức án tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo nhằm góp phần giảm bớt tình hình tại nạn giao thông xảy ra trên địa bàn huyện Châu Thành nói chung và địa bàn nơi xảy ra vụ án nói riêng.

[3] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo tốt không có tiền án, tiền sự; sau khi gây ra tai nạn bị cáo đã tích cực cùng với chủ xe khắc phục xong toàn bộ hậu quả cho gia đình người bị hại và tại phiên tòa người bị hại anh H cũng như người đại diện hợp pháp cho gia đình người bị hại ông L xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS và bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, đối chiếu theo Nghị Quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo có đủ điều kiện để được áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật hình sự, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để cho bị cáo tự thân học tập, cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đã đủ nghiêm.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc định tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

5.1 Sau xảy ra tai nạn bị cáo đã cùng chủ xe tích cực khắc phục xong số tiền 105.000.000 đồng cho gia đình anh Th nên tại phiên tòa người đại diện hợp pháp cho gia đình người bị hại ông Trần Văn L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét.

5.2 Tại phiên tòa người bị hại anh Lê Hảo H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên HĐXX không xem xét.

5.3 Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc C1 không có ý kiến hay yêu cầu gì đối với bị cáo nên HĐXX không xem xét.

[6] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng: Đối với 01 giấy phép lái xe hạn E số 770119002380 của Nguyễn B do Sở giao thông vận tải tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 12/01/2015 cần xử trả lại cho bị cáo B là phù hợp.

[7] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn B phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn B 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn B cho Ủy ban nhân dân P 10, thành phố VT, tỉnh BR-VT giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Về biện pháp tư pháp áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử trả lại cho Nguyễn B 01 giấy phép lái xe hạn E số 770119002380 của Nguyễn B do Sở giao thông vận tải tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 12/01/2015.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 19/QĐ-VKS- CT ngày 08/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Về áp phí áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử buộc bị cáo Nguyễn B phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp cho gia đình người bị hại và ngươi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về