Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/TLST- HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Thị X, sinh ngày 14 tháng 8 năm 1986, tại tỉnh Hải Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu B, khối N, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K và bà Phạm Thị M; chồng con: Có chồng là Lý Đại H và 03 con; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/12/2018 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Bà Lộc Thị C, sinh năm 1970. Nơi cư trú: Đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Lý Đại H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 11/12/2018, Phạm Thị X điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE biển kiểm soát 12P1- 173.51 đến khu vực trước cửa tiệm vàng H, đường B, phường H, thành phố L, Phạm Thị X dừng xe và hỏi mua quýt của bà Lộc Thị C. Trong khi hỏi mua quýt, Phạm Thị X nhìn thấy chiếc ví dạng giả da màu vàng, có hai quai xách để trên sọt quýt nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc ví. Nhân lúc bà Lộc Thị C không để ý, Phạm Thị X dùng tay trái lấy chiếc ví rồi dấu vào trong áo mưa tối màu đang mặc trên người, sau đó nói không mua quýt nữa và điều khiển xe mô tô đi về. Về tới nhà, Phạm Thị X mở ví ra kiểm tra thấy trong ngăn ví bị hỏng khóa có 3.847.000đ (gồm 03 tờ tiền mệnh giá 500.000đ, 02 tờ mệnh giá 200.000đ, 02 tờ mệnh giá 100.000đ, 23 tờ mệnh giá 50.000đ, 12 tờ mệnh giá 20.000đ, 16 tờ mệnh giá 10.000đ, 25 tờ mệnh giá 5000đ, 24 tờ mệnh giá 2000đ, 24 tờ mệnh giá 1000đ). Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 11/12/2018, Phạm Thị X đã đem trả lại tài sản trộm cắp cho bà Lộc Thị C. Ngày 12/12/2018, Phạm Thị X đến công an phường H đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 30/QĐ-VKSTP ngày 24 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Phạm Thị X về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị X thừa nhận hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của bản thân như cáo trạng đã truy tố.

Bị hại bà Lộc Thị C vắng mặt tại phiên tòa. Tại các bản khai tại cơ quan điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt, bà Lộc Thị C trình bày: Sáng 11/12/2018, khi đang bán quýt trước cửa tiệm vàng H, bà bị mất 01 chiếc ví, bên trong có khoảng gần 04 triệu đồng. Đến buổi trưa cùng ngày, bị cáo Phạm Thị X đã mang ví và 3.847.000 đồng trả cho bà. Nay, bà đã nhận được ví và tiền nên không có ý kiến, yêu cầu gì, đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản khai tại cơ quan điều tra, người làm chứng anh Lý Đại H khai: Anh là chồng của Phạm Thị X. Ngày 11/12/2018, sau khi nghe bị cáo kể về việc bị cáo trộm cắp ví và tiền của bà Lộc Thị C, anh đã vận động bị cáo trả lại tài sản cho bà Lộc Thị C.

Tại phiên tòa, đại điện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị X phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị X từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản đầu thú và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 11/12/2018, bị cáo Phạm Thị X đã có hành vi trộm cắp số tiền 3.847.000 đồng của bà Lộc Thị C. Do đó, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Phạm Thị X về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định của pháp luật Hình sự. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu lén lút chiếm đoạt tài sản. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đến cơ quan Công an để đầu thú, bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, hậu quả thiệt hại gây ra. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ (03 tình tiết tại khoản 1 và 02 tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự); không có tình tiết tăng nặng, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo nhất thời phạm tội, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có 03 con còn nhỏ (nhỏ nhất 7 tuổi). Trong quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo chấp hành tốt nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú, xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy không cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, có thể cho bị cáo hưởng án treo tự cải tạo tại địa phương cũng đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 27/12/2018 thể hiện bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại khai đã đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường thêm. Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét giải quyết.

[10] Đối với anh Lý Đại H: Sau khi biết sự việc, anh Lý Đại H đã vận động bị cáo ra đầu thú và trả lại tài sản cho bị hại nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với anh Lý Đại H là có căn cứ.

[11] Đối với chiếc mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu sơn đỏ - đen, biển kiểm soát 12P1-173.51, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lý Đại H. Do anh Lý Đại H không biết bị cáo sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản nên xác định chiếc xe không phải là vật chứng của vụ án, Cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe là có cơ sở.

[12] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị X phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị X 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị X phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà Nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về