Bản án 318/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 318/2018/HS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 391/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3635/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Bùi Thị Thanh Ph., sinh ngày 01 tháng 3 năm 1986 tại Tiền Giang; Thường trú: Số X, đường Y, phường Z, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số X2, đường Y2, phường Z2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Công Đ. (trong lý lịch ghi không rõ cha là ai) và bà Nguyễn Thị Kh. (c); hoàn cảnh gia đình: có chồng là Nguyễn Lê Thanh P. và 02 con (lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017); tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 30/7/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Bản án số 95/2015/HSST).

Bị bắt tạm giam từ ngày 23/11/2017 (Có mặt).

2. Nguyễn Thị Thanh T., sinh ngày 23 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Số X3, đường Y3 , phường Z3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số X4, đường Y4, phường Z4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí

Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Gi. và bà Tô Thị Th. (c); hoàn cảnh gia đình: Có chồng (không đăng ký kết hôn) và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 22/11/2017 (Có mặt).

Người bào chữa:

Ông Nguyễn Văn Tài, luật sư của Văn phòng luật sư Mai Trung Tín thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Bùi Thị Thanh Ph. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16 giờ 40 phút ngày 22/11/2017, tại trước nhà số X5, đường Y5, phường Z5, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 bắt quả tang Nguyễn Thị Thanh T. đang cất giấu trái phép chất ma túy để bán cho người khác. Vật chứng thu giữ của T. gồm: 01 bịch nylon màu đen bên trong có 01 vỏ hộp thuốc lá JET chứa 01 gói nylon, bên trong gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 vỏ hộp thuốc hiệu Para chứa 01 gói nylon bên trong có chứa tinh thể không màu.

Kết quả giám định 02 gói nylon chứa tinh thể không màu thu giữ trên là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 12,2628g, loại Methamphetamine (Kết luận giám định số 21/KLGĐ-H ngày 10/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Thanh T. khai nhận số ma túy trên T. mua của Bùi Thị Thanh Ph..

Căn cứ lời khai của T., lúc 21 giờ 35 phút cùng ngày 22/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 bắt khẩn cấp Bùi Thị Thanh Ph.. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phú tại phòng trọ số M, nhà số X4, đường Y4, phường Z4, Quận 8, thu giữ vật chứng gồm: 07 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 403,0234g, loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu xanh, kết quả giám định có khối lượng 0,7963g, không tìm thấy ma túy (Kết luận giám định số 22/KLGĐ-H ngày 10/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh); 01 cân điện tử; 01 bộ dụng cụ ma túy đá (bình nhựa có gắn ống hút, phễu thủy tinh); 01 điện thoại di động Nokia và 01 điện thoại Iphone.

Quá trình điều tra, Bùi Thị Thanh Ph. khai nhận: Vào khoảng đầu tháng 6/2017, Ph. quen biết với một người đàn ông tên Tu. (không rõ lai lịch) và biết Tu. có ma túy đá bán, nên Ph. đã mua ma túy đá của Tu. để sử dụng và bán lại cho người khác kiếm lời. Cụ thể như sau:

Vào khoảng tháng 6/2017, tại quán cà phê gần ngã tư đường H. và V., quận Bình Tân, Ph. đã mua của Tu. 01g ma túy đá với giá 1.200.000 đồng, Ph. đã sử dụng hết.

Vào ngày 22/11/2017, Nguyễn Thị Thanh T. (là bạn, thuê phòng trọ cùng khu trọ với Ph.), gọi điện thoại cho Ph. đặt mua 10g ma túy đá, Ph. thỏa thuận giá bán là 10.600.000 đồng và hẹn T. khoảng 01 giờ sau đến chỗ ở của Ph. để giao dịch. Sau đó, Ph. đi đến quán cà phê gần ngã tư đường H. và V, quận Bình Tân gặp Tu. mua khoảng 10g ma túy đá với giá 10.000.000 đồng nhưng chưa trả tiền. Sau khi mua được ma túy, Ph. đem về chỗ ở cất giấu. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T. đến chỗ ở của Ph. và Ph. đã bán số ma túy nói trên cho T. với giá 10.600.000 đồng nhưng T. chưa trả tiền cho Ph..

Sau khi bán ma túy cho T. xong, cùng ngày 22/11/2017, một người đàn ông tên T2. (không rõ lai lịch) là bạn của Tu. điện thoại liên lạc với Ph. để lấy 400g ma túy đá Tu. gửi cho T2.. Ph. gọi điện thoại cho Tu., Tu. nói cho Ph. biết việc có bán khoảng 400g ma túy cho T2. giá 190.000.000 đồng. Khoảng 19 giờ cùng ngày sẽ có một người đàn ông đem ma túy đến giao cho Ph., Tu. nhờ Ph. nhận rồi giao lại cho T2.. Ph. chỉ giao ma túy, còn tiền bán ma túy thì Tu. và T2. sẽ thanh toán với nhau. Tu. nói Ph. ứng ra trước 500.000 đồng để trả cho người đem ma túy đến, sau khi xong việc, Tu. sẽ trả lại cho Ph. và trả công cho Ph. là 2.500.000 đồng, Ph. đồng ý.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày 22/11/2017, có 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) đến chỗ ở của Ph. giao cho Ph. 01 gói ma túy đá, nhận xong Ph. đưa cho người đàn ông trên 500.000 đồng rồi đem gói ma túy vào phòng để gần nệm ngủ. Ph. lấy ra một ít ma túy từ gói ma túy mới nhận chia thành 02 gói nhỏ, 01 gói để cạnh nệm ngủ và 01 gói cất giấu trong bóp da của Ph. để bán nhưng Ph. chưa kịp bán thì bị Công an Quận 5 khám xét thu giữ.

Nguyễn Thị Thanh T. khai nhận: Vào ngày 22/11/2017 có một người thanh niên tên Đ. (không rõ lai lịch) gọi điện thoại cho T. hỏi mua 2 hộp 5 (khoảng 10g) ma túy đá với giá 11.600.000 đồng. T. đồng ý bán và hẹn địa điểm giao dịch tại khách sạn N nằm trên đường X5, Phường Y5, Quận 5. Sau đó, T. liên lạc với Bùi Thị Thanh Ph. và đi đến chỗ ở của Ph. tại phòng trọ số M3, Số X2, đường Y2, phường Z2, Quận 8 mua 02 gói khoảng 10g ma túy đá với giá 10.600.000 đồng, chưa trả tiền cho Ph..

Sau khi mua được ma túy, T. về chỗ ở và nhờ em gái tên Nguyễn Thị Thanh Tr. sử dụng xe gắn máy biển số 53X3-2593 chở T. đi đến khách sạn N. để bán ma túy cho Đ. nhưng T. không cho Tr. biết việc đi bán ma túy. Khi đến khách sạn N. do điện thoại của T. hết pin không liên lạc được với Đ. để bán ma túy nên T. bảo Tr. chở về nhà. Khi cả hai đi đến trước nhà số X5, đường Y5, phường Z5, Quận 5 thì bị Công an Quận 5 phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Đối với Nguyễn Thị Thanh Tr. (sinh năm 2003) là em gái của Nguyễn Thị Thanh T. đi cùng T. nhưng không biết việc T. đi bán ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tr. là có cơ sở.

Đối với đối tượng tên Tu. và người đàn ông đến giao ma túy cho Ph., đối tượng tên Đ. là người mua ma túy của T., do Ph. và T. khai không rõ lai lịch của các đối tượng nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

Vật chứng vụ án:

1. Thu giữ của Bùi Thị Thanh Ph.:

- 01 gói niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 22/2018/Q5 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, Ph. khai sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, Ph. khai sử dụng để nghe nhạc và chơi game.

- 01 cân điện tử, 01 bịch nylon chứa gói nylon loại nhỏ Ph. sử dụng để mua bán ma túy.

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: Nỏ, ống hút, bình thủy tinh là của Ph. dùng để sử dụng ma túy đá.

2. Thu giữ của Nguyễn Thị Thanh T.:

- 01 gói niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 21/2018/Q5 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, T. sử dụng để mua bán ma túy.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda – Wave gắn biển số 53X3-2593, số khung RRSWWCH7RS61-002851, số máy RRSSV152FMH-002851. Kết quả giám định số khung và số máy của chiếc xe trên là nguyên thủy, không bị đục lại. Kết quả điều tra xác minh chiếc xe này gắn biển số giả, biển số 53X3-2593 được cấp cho một chiếc xe khác. Kết quả xác minh số máy, số khung của chiếc xe trên tại Phòng CSGT-Công an Thành phố Hồ Chí Minh không xác định được chủ sở hữu. T. khai xe này của T. mua của 01 người đàn ông tên S. (không rõ lai lịch) tại đường P. (dưới chân cầu chữ Y) Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.500.000 đồng để sử dụng nhưng không làm giấy tờ mua bán xe. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn số 283/CV- PC47(Đ5) ngày 22/3/2018 gửi Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị đăng tin tìm chủ sở hữu xe, hiện chưa có người đến liên hệ giải quyết.

Tại Bản cáo trạng số 269/CT-VKS- P1 ngày 26/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Bùi Thị Thanh Tr. về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T. về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị:

Áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), xử phạt bị cáo Bùi Thị Thanh Ph. từ 18 đến 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của bản án này với bản án mà bị cáo Ph. chưa chấp hành. Thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2017. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Ph. nộp phạt bổ sung từ 15 đến 20 triệu đồng.

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009), xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T. từ 03 đến 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2017. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo T. nộp phạt bổ sung từ 05 đến 10 triệu đồng.

Và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Văn Tài trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo Ph.: Nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo Ph.. Tuy nhiên, luật sư cũng nêu nguyên nhân, động cơ, hoàn cảnh dẫn đến việc bị cáo phạm tội, cùng các tình tiết giảm nhẹ để xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.

Bị cáo Ph., T. thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của các bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi các bị cáo Bùi Thị Thanh Ph. và Nguyễn Thị Thanh T. đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với các bị cáo.

Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án xét đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào lúc 16 giờ 40 phút ngày 22/11/2017, bị cáo T. có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán lại cho người khác và bị Đội Cảnh sát điều tra tội pham về ma túy – Công an Quận 5 bắt quả tang thu giữ 01 bịch nylon, bên trong ma túy ở thể rắn, có khối lượng 12,2628g, loại Methamphetamine.

Mở rộng điều tra lúc 21 giờ 35 phút ngày 22/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 đã bắt khẩn cấp Bùi Thị Thanh Ph. và khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ph. tại phòng trọ số M3, Số X2, đường Y2, phường Z2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả bắt quả tang Bùi Thị Thanh Ph. có cất giữ 07 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 403,023g, loại Methamphetamine để bán lại cho người khác kiếm lời. Bị cáo Ph. thừa nhận đã mua và nhận ma túy của Tu. (không rõ lai lịch), với khối lượng 12,2628g Methamphetamine, sau đó bán lại cho T. nhằm thu lợi bất chính. Bị cáo T. vì muốn có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng nên đã mua ma túy của Ph. về bán lại cho người khác để hưởng lợi.

Với hành vi như đã nêu trên của các bị cáo xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng vì lợi nhuận các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Hành vi phạm tội của các bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, đến sức khỏe của con người, làm lây lan tệ nạn nghiệp ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn khác. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Căn cứ vào số lượng ma túy mà các bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán, cụ thể bị cáo Ph. phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng ma túy ở thể rắn là 415,4928 g loại MA nên cần áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để xét xử bị cáo Ph., đối với bị cáo T. phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy là 12,2628g loại Methamphetamine nên áp dụng khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) để xét xử bị cáo T.. Ngoài hình phạt chính, cần buộc bị cáo Ph. phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo T..

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Khi lượng hình cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo T. có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên có xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với bị cáo Ph. đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt của bản án mà bị cáo Ph. chưa chấp hành.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 21/2018/Q.5 có chữ ký của GĐV Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định và 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 22/2018/Q.5 có chữ ký của GĐV Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã qua sử dụng là điện thoại của Ph., Ph. khai sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, là phương tiện phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone màu trắng đã qua sử dụng, là điện thoại của bị cáo Ph., không liên quan đến hành vi phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần trả lại cho bị cáo Ph..

- Đối với 01 cân điện tử, bị cáo Ph. sử dụng để mua bán ma túy, là phương tiện phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 bịch nylon chứa gói nylon loại nhỏ; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ, ống hút, bình thủy tinh), Ph. sử dụng để mua bán và sử dụng ma túy, là vật chứng không còn giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, bị cáo T. dùng để liên lạc mua bán ma túy, là phương tiện phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe: 02 bánh; Số loại: Wave; BS: 53X3-2593; SK: RRSWCH7RS61-002851 (ghi theo số cà), số máy RRSSV152FMH-0002851 (ghi theo số cà). Kết quả giám định số khung và số máy của chiếc xe trên là nguyên thủy, không bị đục lại. Kết quả điều tra xác minh chiếc xe này gắn biển số giả, biển số 53X3-2593 được cấp cho một chiếc xe khác. Kết quả xác minh số máy, số khung của chiếc xe trên tại Phòng CSGT- Công an Thành phố Hồ Chí Minh không xác định được chủ sở hữu. Do đó, cần đăng trên phương thông tin đại chúng trong thời gian 06 tháng để tìm chủ sở hữu, nếu sau thời gian trên vẫn không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Bùi Thị Thanh Ph., Nguyễn Thị Thanh T. phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Bùi Thị Thanh Ph. 20 (hai mươi) năm tù. Tổng hợp hình phạt của bản án này đối với bản án số 95/2015/HSST ngày 30/7/2015 của Tòa án nhân dân Quận 7 đã xét xử bị cáo 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 22 (hai mươi hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2017.

Hình phạt bổ sung: Buộc bị cáo Ph. nộp 10 (mười) triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T. 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/11/2017.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Trả lại cho bị cáo Bùi Thị Thanh Ph.:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone màu trắng đã qua sử dụng;

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

- 2 (hai) cái điện thoại di động Nokia màu đen đã qua sử dụng;

- 01 (một) cái cân điện tử;

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 21/2018/Q.5 có chữ ký của GĐV Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 22/2018/Q.5 có chữ ký của GĐV Nguyễn Mạnh Cường (PC54) và ĐTV Nguyễn Văn Ph. (PC47), bên trong là ma túy còn lại sau giám định

- 01(một) bịch nylon chứa gói nilon loại nhỏ;

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ, ống hút, bình thủy tinh);

+ Đăng trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian 06 tháng đối với 01 xe hai bánh gắn máy; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe: 02 bánh; Số loại: Wave; BS: 53X3-2593; SK: RRSWCH7RS61-002851 (ghi theo số cà), SM: RRSSV152FMH-0002851 (ghi theo số cà) để tìm chủ sở hữu. Nếu hết thời hạn 06 (sáu) tháng mà không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 280/18 ngày 02/72018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 318/2018/HS-ST ngày 18/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:318/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về