Bản án 319/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 319/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 108/2018/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2018, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/10/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tạ Thị Minh L, sinh năm 1982; ĐKHKTT: thôn H, xã L, thành phố T, tỉnh T. Nơi ở hiện nay: thôn H, xã L, thành phố T, tỉnh T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976; Địa chỉ: thôn H, xã L, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có qua thời gian tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Anh chị đăng ký kết hôn ngày 17/10/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Lưỡng Vượng, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống cùng nhà với bố mẹ đẻ của anh Đông tại thôn H, xã L, thành phố T được một thời gian ngắn thì thuê nhà tại thôn H1, xã L, thành phố T. Tới năm 2011, anh chị lại về ở với bố mẹ đẻ của anh Đ được một thời gian đến tháng 2/2012 thì lại ra thuê nhà ở cùng thôn H, xã L, thành phố T, đến tháng 2/2018 thì thuê nhà tại thôn H1, xã L, thành phố T sinh sống cho đến nay. Theo chị L, quá trình chung sống vợ chồng bình thường đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, anh Đ ghen tuông vô cớ dẫn đến vợ chồng xô xát, cuộc sống gia đình nặng nề, mâu thuẫn cuộc sống ngày càng trầm trọng tới mức khó có thể giải quyết, đã sống ly thân từ tháng 12/2017 đến nay mặc dù vẫn sống chung một nhà. Đến nay chị nghiêm túc nhìn nhận thấy mình không còn tình cảm với anh Nguyễn Văn Đ, không thế tiếp tục cuộc sống chung cũng như duy trì quan hệ hôn nhân nữa vì chỉ làm khổ hai người và ảnh hưởng đến con trai nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

Quá trình giải quyết, anh Nguyễn Văn Đ không có mặt tại các buổi làm việc do Toà án tiến hành mặc dù đã được Toà án báo gọi hợp lệ. Tại buổi làm việc do Toà án tiến hành tại nơi ở của anh chị tại thôn H1, xã L, thành phố T, anh Đ trình bầy: Chị L làm đơn bỏ anh khi anh đang bệnh tật (mổ thoát vị đĩa đệm) phải nằm viện nhiều ngày là thể hiện con người không có tình nghĩa vợ chồng nên anh không cần, anh đồng ý ly hôn. Hiện tại anh đang bệnh tật không thể nuôi bản thân nên không thể nuôi con và cấp dưỡng nuôi con cùng chị L, chị L phải tự nuôi con. Tuy nhiên sau khi trình bầy, Toà án hướng dẫn anh Đ viết bản tự khai nhưng anh Đ không viết và lại có ý kiến rằng anh không đồng ý ly hôn ngày hôm nay mà để đến khi nào anh khỏi bệnh tật anh sẽ tự đưa chị L đến Toà án để giải quyết. Đồng thời anh Đ tuyên bố không ký biên bản nào do Toà án tiến hành, sau đó anh Đ bỏ đi khỏi nhà không làm việc với Toà án.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải do Toà án tiến hành tại trụ sở vào hồi 13h 30 phút ngày 28/9/2018, chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ đều có mặt. Anh Đ có ý kiến: anh không nhất trí ly hôn với chị L, anh cũng không viết bản tự khai và không ký bất cứ văn bản tố tụng nào của Toà án. Vì anh không bỏ vợ, bỏ con và hiện nay do anh vừa đi mổ thoát vị đĩa đệm về sức khoẻ còn chưa ổn định, tự chị L làm đơn ly hôn với anh nên Toà án cứ làm việc và giải quyết với chị L. Về con chung, do anh bệnh tật nên không thể cấp dưỡng nuôi con được. Anh sẽ không nhận bất cứ văn bản, tài liệu gì của Toà án. Sau khi ý kiến như trên, anh Đ bỏ về không tiếp tục làm việc với Toà án, do vậy phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải không thành.

Về con chung: Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ có 01 con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 04/10/2009 đang do chị L nuôi dưỡng. Quá trình giải quyết chị L xin được tiếp tục nuôi con chung không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con do hiện tại anh Đ đang ốm yếu không có khả năng nuôi con.

Về tài sản và vay nợ chung: Chị Tạ Thị Minh L xác định chị và anh Nguyễn Văn Đ không có tài sản chung, không có vay nợ chung trong quá trình chung sống nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kết quả xác minh tại gia đình anh Đ thể hiện: Anh Nguyễn Văn Đ và chị Tạ Thị Minh L kết hôn có đăng ký theo quy định pháp luật và về chung sống cùng nhà với vợ chồng ông bà Nguyễn Văn Q và Nguyễn Thị C (là bố mẹ đẻ của anh Đ) tại thôn H, xã L, thành phố T được khoảng hơn một tháng thì anh Đ chủ động xin phép ông bà cho anh chị ra ở riêng để làm kinh tế. Sau đó anh chị thuê nhà ở riêng thì phát sinh mâu thuẫn do chị L ham mê Facebook và hay giao lưu bạn bè, không chú tâm chăm lo gia đình chồng con. Đến năm 2015, anh Đ bị bệnh thoát vị toàn bộ đĩa đệm cột sống, chị L có hiện tượng có quan hệ với người thứ ba, không quan tâm gì đến chồng và bệnh tật của chồng. Đầu năm 2018, anh Đ bệnh nặng phải mổ tại Hà Nội nhưng chị L cũng không hề quan tâm gì, việc chữa trị cho anh Đ hoàn toàn do gia đình bà lo toan. Gia đình ông bà nhận thấy chị L không thực hiện được vai trò của người vợ, người con dâu trong gia đình, hiện tại anh chị đã sống ly thân, tuy nhiên gia đình vẫn mong muốn anh chị đoàn tụ cho con đỡ khổ nhưng khả năng cứu vãn cuộc hôn nhân là rất khó. Anh chị L – Đ không có tài sản chung với gia đình bà.

* Kết quả xác minh tại gia đình của chị L thể hiện: Quá trình chung sống của chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ ngay từ đầu đã mâu thuẫn do anh Đ hay ghen, nghe người khác trêu đùa hoặc nói vu vơ cũng về đánh vợ. Bà Bùi Thị T (là mẹ đẻ của chị L) cho biết bà đã rất nhiều lần khuyên bảo anh Đ, anh Đ nhiều lần xin lỗi và hứa thay đổi nhưng không thực hiện. Tháng 2/2018, anh Đ đẩy chị L ngã ngất phải đi cấp cứu, sau lần đó anh chị sống ly thân, anh Đ về nhà bố mẹ đẻ còn chị L và con trai vẫn ở nhà thuê. Trong thời gian anh chị ly thân, bà có ra nhà anh chị để hoà giải nhưng anh Đ lại đưa mẹ đẻ cùng hai em cô và hai em chú cùng đến, mẹ anh Đ không nói chuyện với bà mà tuyên bố “Con L bỏ thằng Đ thì không sống được ở đất số 5 này” còn anh Đ thì đập phá hết đồ đạc là tài sản sinh hoạt chung của vợ chồng của anh chị nhưng các em cô em chú cũng không can ngăn. Bà nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng của anh chị L – Đ không thể khuyên giải được, không thế đoàn tụ tiếp tục chung sống, chị L xin ly hôn vì chị khổ quá rồi, bà đề nghị Toà án xem xét và cho chị L được nuôi con.

* Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Chính quyền thôn H, xã L, thành phố T không nắm được mâu thuẫn cụ thể của anh Nguyễn Văn Đ và chị Tạ Thị Minh L vì anh chị không sinh sống tại thôn mà thuê nhà ở nơi khác, cũng không yêu cầu chính quyền hoà giải cho anh chị. Chính quyền thôn H1, xã L, thành phố T nơi anh chị thuê nhà sinh sống cho biết: Quá trình chung sống cụ thể của anh chị thôn không nắm được nhưng trong thời gian sinh sống tại thôn có một vài lần anh chị xô xát lớn, lần gần nhất là vào khoảng tháng 3 - 4/2018, anh Đ đập phá tài sản gia đình gây mất trật tự thôn xóm dẫn đến chính quyền thôn phải lập biên bản sự việc. Sau đó anh Đ về ở nhà bố mẹ đẻ chỉ còn chị L và con trai ở nhà thuê, thi thoảng có thấy anh Đ về nhà thuê xong lại đi.

Tại phiên toà, chị Tạ Thị Minh L có đơn xin xét xử vắng mặt, chị giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Văn Đ và xin nuôi con chung Nguyễn Gia H, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, ngoài ra không yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề nào khác. Anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt không có lý do.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Riêng phía bị đơn chấp hành chưa nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ có đăng ký kết hôn ngày 17/10/2008 tại UBND xã Lưỡng Vượng, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn không hoà giải được, hiện đã sống ly thân. Chị L đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ nhưng anh Đ không đồng ý. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử xử theo hướng chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Tạ Thị Minh L; Giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Gia H. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và vay nợ chung: Không xem xét giải quyết do các đương sự xác định không có và không yêu cầu. Chị L phải chịu án phí; các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ (gửi bảo đảm qua đường bưu điện và tống đạt trực tiếp) các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Tại phiên toà, chị Tạ Thị Minh L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân của chị L và anh Đ là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày không hoà giải được. Từ cuối năm 2017 anh chị sống ly thân, chị L có đơn yêu cầu ly hôn với anh Đ. Quá trình Toà án giải quyết, anh Đ không nhất trí ly hôn với chị L nhưng không có mặt đủ tại các buổi làm việc và hoà giải do Toà án tiến hành.

Qua việc điều tra, xác minh thể cuộc sống chung của chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ có nhiều mâu thuẫn dẫn đến hiện đang sống ly thân. Như vậy, có cơ sở cho thấy hôn nhân của chị L và anh Đ đã lâm vào tình trạng thực sự trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, chị L không còn tình cảm với anh Đ, không có khả năng đoàn tụ chung sống. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận xử cho chị Tạ Thị Minh L được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

[3] Về con chung: Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ có 01 con chung hiện đang do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh chị L – Đ đều chung ý kiến đề nghị chị L là người trực tiếp nuôi con sau ly hôn và không yêu cầu Toà án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đề nghị của hai anh chị cần giao con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 04/10/2009 cho chị Tạ Thị Minh L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Do hiện tại chị L không yêu cầu về việc cấp dưỡng của anh Đ đối với con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh Nguyễn Văn Đ có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản và vay nợ chung: Các đương sự xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Tạ Thị Minh L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; anh Nguyễn Văn Đ không phải nộp án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 147, khoản 2 Điều 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Tạ Thị Minh L được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Xử giao con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 04/10/2009 cho chị Tạ Thị Minh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Nguyễn Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do hiện tại chị L không yêu cầu). Anh Nguyễn Văn Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Tạ Thị Minh L phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0005180 ngày 04/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang. Chị Tạ Thị Minh L đã nộp đủ án phí của vụ án. Anh Nguyễn Văn Đ không phải nộp án phí.

Chị Tạ Thị Minh L và anh Nguyễn Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 319/2018/HNGĐ-ST ngày 08/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:319/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về