Bản án 32/2017/HNGĐ-ST ngày 15/12/2017 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 32/2017/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2017 VỀ LY HÔN

Trong ngày 15/12/2017 tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử công khai vụ án thụ lý số: 169/ 2017/ TLST - HNGĐ ngày 05/ 10/ 2017 về việc kiện ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/ 2017/ QĐXX - ST ngày 10/11/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2017/QĐST-HNGĐ ngày 28/11/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1984

Bị đơn: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1981

Đều có HKTT: Thôn Tr, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội.

Chị L có mặt, anh T vắng vặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và những lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Phạm Thị Lệ trình bày:

- Về hôn nhân: Chị L và anh Vũ Văn T tự nguyện kết hôn vào ngày 20/10/2003, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Sau khi cưới, chị về chung sống với anh T tại thôn T, xã g L, quan hệ vợ chồng hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh T lại hay chơi bời, không chịu tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Chị đã ly thân với anh T từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, hạnh phúc không có, chị đề nghị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Vũ Mạnh Kh, sinh ngày 13/7/2004, Vũ Hoài N, sinh ngày 21/4/2007; hiện nay cả hai con chung đang ở với anh T. Ly hôn chị xin được nuôi dưỡng cháu Vũ Hoài N và đồng ý để cho anh T nuôi dưỡng cháu Vũ Mạnh Kh; không bên nào có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

- Về tài sản chung vợ chồng: Chị Lkhông yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn, anh Vũ Văn T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh T xác nhận, anh và chị L tự nguyện kết hôn từ năm 2003. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống. Nay chị L xin ly hôn anh, anh đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng được đoàn tụ. Trường hợp chị L cứ cố tình xin ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Về con chung: Anh T xác nhận, anh chị có 02 con chung là Vũ Mạnh Kh, sinh ngày 13/7/2004, Vũ Hoài N, sinh ngày 21/4/2007; hiện nay cả hai con chung đang ở với anh. Ly hôn anh xin được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, anh không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung với anh. Trường hợp chị L xin được nuôi cháu Vũ Hoài N thì anh cũng đồng ý.

- Về tài sản chung vợ chồng: Anh Tưởng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà: Chị L giữ nguyên yêu cầu của mình.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các qui định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị L; giao cháu Vũ Hoài N, sinh ngày 21/4/2007 cho chị Lệ nuôi dưỡng; giao cháu Vũ Mạnh Kh, sinh ngày 13/7/2004 cho anh T nuôi dưỡng; không bên nào có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào và không xem xét quan hệ tài sản chung vợ chồng do các bên không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng anh Vũ Văn T vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo qui định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Tưởng.

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Vũ Văn T tự nguyện kết hôn ngày 20/10/2003, bằng việc đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoàng Long, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị L chung sống với anh T ngay tại gia đình anh T. Quan hệ vợ chồng hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do không hợp tính, bất đồng quan điểm sống, phần do anh Tưởng ham chơi, không chịu làm ăn, thiếu trách nhiệm với gia đình, khiến chị quyết định ly thân anh bằng cách về quê đẻ ở, để thoát ly đời sống chung vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Nhưng mặt khác, khi Tòa án triệu tập để hòa giải đoàn tụ, thì anh T không tham gia các phiên hòa giải, không chứng minh cho thiện chí thực sự mong muốn được hàn gắn hôn nhân. Xác minh tại nơi cư trú, chính quyền địa phương cũng xác nhận, mâu thuẫn giữa các bên là không thể hàn gắn và trên thực tế quan hệ hôn nhân đã thực sự chấm dứt từ gần một năm nay. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã thực sự trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, thời gian ly thân đã lâu, nên cần áp dụng các quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 của Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị L và xử cho chị L được ly hôn với anh Vũ VănT.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Vũ Mạnh Kh, sinh ngày 13/7/2004; Vũ Hoài N, sinh ngày 21/4/2007. Quá trình giải quyết việc kiện, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con. Chị L xin được nuôi cháu Nam, anh T nguyện vọng xin được nuôi cháu Khởi, cháu Nam. Trường hợp chị L xin được nuôi cháu Nam thì anh T cũng đồng ý, nên Hội đồng xét xử quyết định giao mỗi người nuôi dưỡng, chăm sóc một cháu, vừa đảm bảo cho sự phát triển bình thường của các cháu và bảo đảm quyền về nuôi con của vợ chồng khi ly hôn. Giao chị L nuôi dưỡng cháu Vũ Hoài N, anh T nuôi dưỡng cháu Vũ Mạnh Kh là phù hợp với quy định của Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị L, anh T đều không yêu cầu các bên phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Sự tự nguyện của các bên là phù hợp với pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận và tạm miễm nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị L, anh T đến khi chị L, anh T có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị L, anh T đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về Tài sản chung vợ chồng: Các bên không đề nghị Toà xét. Toà không xét.

Về án phí: Chị Lệ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 39 BLDS; Điều 147 Bộ luật TTDS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị L được ly hôn anh Vũ Văn T.

2. Về con chung: Giao chị Phạm Thị Lệ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Hoài Nam, sinh ngày 21/4/2007; Giao anh Vũ Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Mạnh Kh, sinh ngày 13/7/2004. Tạm miễn việc góp phí tổn nuôi con cho chị Lệ, anh T đến khi chị L, anh T có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị L, anh Tưởng đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung vợ chồng: Các bên không yêu cầu Toà xét, Toà không xét

4. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào khoản tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí số AE/2010/0004812 ngày 05/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên. Chị L đã nộp đủ án phí án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2017/HNGĐ-ST ngày 15/12/2017 về ly hôn

Số hiệu:32/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về