Bản án 32/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2018/HS-ST NGÀY 05/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2018/HSST ngày 05 tháng 9 năm2018. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/HSST-QĐ ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức L, sinh năm 1993 tại huyện T, tỉnh Hải Dương

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh ; giới tính : nam; tôn giáo : không ; quốc tịch : Việt Nam ; con ông Nguyễn Văn L và bà Đào Thị T ; Tiền án, tiền sự : không ; Bị bắt tạm giữ từ ngày 05/6/2018, chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Kim chi Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 14/6/2018; có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn S, sinh năm 1998.

Trú tại: Khu 1, phường N, Tp. HD, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn L, xã D, huyện L, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 04/6/2018, Nguyễn Đức L đi đến khu vực ngã 3, thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương gặp và mua của một người đàn ông tên S ( không rõ tên tuổi, địa chỉ) 01 túi ma túy đá với giá 7.000.000đ và 15 viên ma túy tổng hợp với giá 5.000.000đ; mục đích để bán kiếm lời. Sau khi mua, L đem về nhà chia thành 03 túi nilon to, 03 túi nilon nhỏ, còn 15 viên ma túy tổng hợp L để trong 1 túi nilon. Khoảng 22 giờ cùng ngày L cất dấu số ma túy trên vào trong hai túi quần đang mặc trên người và đi đến quán Karaoke Anh Vinh ( do bà Trần Thị X đứng tên đăng ký kinh doanh) địa chỉ thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương để tìm người mua ma túy. Khi đang ngồi uống nước trong quán, có một thanh niên (tự khai là Trần Văn X, sinh năm 1994, nhà ở khu 3, phường Ng, Tp. Hải Dương) đến gặp L hỏi mua ma túy đá, L đồng ý bán 01 túi nilon nhỏ ma túy với giá 300.000đ và bảo người thanh niên cứ về phòng hát, tí L cầm vào. Sau đó, L đi vào phòng hát đưa ma túy cho X và nhận 300.000đ thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy ( PC47) Công an tỉnh Hải Dương bắt qua tang, thu giữ trong tay phải Trần Văn X

01 túi nilon màu trắng kích thước 2x2cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; thu giữ của L: 300.000đ đang cầm trên tay phải, thu trong túi quần bên phải

05 túi nilon màu trắng bên trong có các túi nilon đều có chứa các chất dạng tinh thể màu trắng, gồm: 01 túi nilon kích thước 07x07cm; 02 túi nilon kích thước 04x07cm; 02 túi nilon kích thước 01x1,5cm; thu trong túi quần bên trái thu được 01 túi nilon kích thước 05 x 07cm bên trong có chứa 15 viên hình tròn màu xanh, một mặt có chữ VL.

Tại kết luận giám định số 383/KLGĐ – PC45 ngày 07/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu của Trần Văn X gửi đến giám định có khối lượng 0,052gam là loại Methamphetamine; chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ký hiệu M2, ghi thu của Nguyễn Đức L, gửi đến giám định có tổng khối lượng là 41,625gam là loại Methamphetamine; 15 viên nén hình trụ tròn mầu xanh niêm phong trong phong bì kí hiệu M3, ghi thu của Nguyễn Đức L gửi đến giám định có tổng khối lượng là 5,082gam là loại MDMA. Số ma túy còn lại sau giám định là 39,545gam Methamphetamine và 4,434gam MDMA được niêm phong bảo quản theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo khai nhận như đã nêu trên.

Tại cáo trạng số 36/CT-VKS-P1 ngày 04 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Đức L về tội "Mua bán trái phép chất ma túy“ theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như tại cơ quan điều tra và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu luận tội: Phân tích, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự; phạt bị cáo từ 15 năm đến 16 năm tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 05/6/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; đề xuất xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

 [2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các kết luận giám định. Nên có căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 04/6/2018 tại quán Karaoke Anh Vinh, địa chỉ: thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Đức L có hành vi bán trái phép 0,052gam ma túy loại Methamphetamine cho Trần Văn X với giá 300.000đ và cất giữ trái phép 41,625gam ma túy loại Methamphetamine, 15 viên nén ma túy loại MDMA trong lượng 5,082gam mục đích để bán kiếm lời. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội " Mua bán trái phép chất ma túy". Trong lượng các chất ma túy ở thể rắn theo kết luận giám định là 46,759gam, nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung tặng nặng theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự. Nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh chính trị tại địa phương. Ma túy là chất gây nghiện, người sử dụng ma túy có thể sẽ bị suy nhược hệ thần kinh của con người ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người đồng thời là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm. Vì thế Nhà nước có chính sách độc quyền quản lý đối với ma túy, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ...trái phép chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Nên cần phải nghiêm trị để cảnh tỉnh cho những ai có tư tưởng như bị cáo.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có ông nội là người có công được tặng thưởng Huân huy chương, HĐXX coi đó là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ, bản thân không có tiền án, tiền sự. Nên khi quyết định hình phạt cho bị cáo cần xem xét đến các tình tiết này.

[4] Đối với Trần Văn X là người mua ma túy của L, trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra đã lợi dụng bỏ trốn. Theo lời khai tại cơ quan điều tra đã xác minh nhưng tại phường N, Thành phố Hải Dương không có khu 3, và không có ai tên Trần Văn X như khai nhận. Nên hành vi của X không xem xét trong vụ án này.

[5]. Về vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo, sau khi giám định hoàn lại là 39,545gam Methamphetamine và 4,434 gam MDMA. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy; số tiền 300.000đ thu của bị cáo là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Theo quy định tại điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

 [6]. Về án phí: Bị cáo có tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức L phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Đức L 16 ( mười sáu) năm 06 ( sáu) tháng tù , thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/6/2018.

-Áp dụng điểm b,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự ; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu cho tiêu hủy 39,545gam Methamphetamine và 4,434 gam MDMA đựng trong phong bì số 382/KLGD – PC54 mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hải Dương, mặt sau có dấu giáp lai còn nguyên vẹn ( đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2018 giữa Công an tỉnh Hải Dương với Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương)

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ trong phong bì niêm phong số 257 của Công an tỉnh Hải Dương theo phiếu nhập kho và biên bản giao nhận tài sản ngày 12/6/2018 giữa Công an tỉnh Hải Dương với Kho bạc Nhà nước Hải Dương.

- Áp khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết 326/2016/QH 14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Nguyễn Đức L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Đức L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về