Bản án 32/2018/HS-ST ngày 17/09/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 32/2018/HS-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/9/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:20/2018/TL-ST/HS ngày 22/6/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2018/QĐXXST-HS ngày 04/9/2018 đối với bị cáo:

VÕ VĂN C – Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1989; Tại tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Xóm B, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Quý, sinh năm 1969, con bà Nguyễn Thị T, Sinh năm 1969. Hiện cư trú tại: Xóm Bù Sành, xã Châu Thái, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Bị cáo hiện đang chung sống như vợ chồng với chị Trần Thị Mỹ H, sinh năm 1997; Hiện ở: Thôn Đ, thị trấn P, huyện N , tỉnh Kon Tum; Bị cáo 02 con (con nhỏ nhất sinh năm 2017, con lớn nhất sinh năm 2010); Tiền án; Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2009/HSST ngày 23/4/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2018, hiện đang bị tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hồ Ngọc H . 

Văn phòng Luật sư Hồ Ngọc H , thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

Địa chỉ: Đường I , phường Tân Lợi, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

* Người chứng kiến:

- Chị Phạm Thị Thu H - sinh năm 1972 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Đường N, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Ông Đồng Sơn Quang – Sinh năm 1964 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Liên gia X, tổ dân phố S, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn C là người nghiện ma túy. Trong thời gian sinh sống tại thị trấn P , huyện N, tỉnh Kon Tum Võ Văn C quen biết với người tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch). Tối ngày 07/3/2018, T1 gặp C và nhờ C mang gói ma túy đá từ huyện N , tỉnh Kon Tum đến thành phố B, tỉnh Đắk Lắk giao cho một người đàn ông. Xong việc, T1 sẽ trả tiền công cho C 5.000.000 đồng thì C đồng ý. Tối ngày 08/3/2018, T1 đưa cho C 01 gói nylon chứa ma túy đá và số điện thoại của người đàn ông nhận ma túy đá ở thành phố B (C nhớ ba số cuối là 502) để C liên lạc giao gói ma túy đá. T1 dặn C “Khi đến thành phố B chủ động gọi điện liên lạc với người nhận gói ma túy đá, nhưng khi nào T1 gọi cho C thông báo nhận được tiền chuyển khoản của người này trong tài khoản của T1 thì mới được giao gói ma túy đá” C đồng ý và cất gói ma túy đá vào túi áo khoác đang mặc rồi đón xe khách đi thành phố B. Khoảng 07 giờ sáng ngày 09/3/2018, C đến thành phố B liên lạc với người đàn ông theo số điện thoại mà T1 đã đưa để giao ma túy thì người này hẹn gặp C tại khách sạn Mai Anh ở địa chỉ số 11 đường Lý Tự Trọng, phường TA, thành phố B. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/3/2018, khi C mang gói ma túy đá đến điểm hẹn, chưa kịp giao gói ma túy đá thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố B phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại túi áo khoác bên phải C đang mặc 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể có khối lượng 100,8674 gam.

- 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO màu hồng đã cũ, màn hình bị nhiều vết nứt không rõ hình dạng kèm theo số sim 0965982042.

Tại bản Kết luận giám định số: 298/GDMT- PC54 ngàỵ 14/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 100,8674 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 20/CT-VKS-P1 ngày 20/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Võ Văn C về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Võ Văn C 20 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ: 100,4677 gam ma túy loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định là vật chứng vụ án và số sim điện thoại 0965982042 thu giữ của Võ Văn C .

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO màu hồng đã cũ, màn hình bị nhiều vết nứt không rõ hình dạng là công cụ phương tiện Võ Văn C sử dụng vào việc phạm tội.

Đối với người đàn ông tên T1 (không rõ nhân thân lai lịch) và người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) có số điện thoại mà T1 đã đưa cho C để liên lạc nhận ma túy. Qua tài liệu điều tra chưa có đủ căn cứ để xử lý nên Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến bào chữa: Việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, sau khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo có ông nội được tặng huy chương, bản thân bị cáo có công cứu giúp người đuối nước. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt, sớm trở về với gia đình, cộng đồng xã hội.

Bị cáo nhất trí với quan điểm, ý kiến của người bào chữa và không có tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không ai có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dụng vụ án: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Ngày 08/3/2018, Võ Văn C đã nhận vận chuyển 01 gói ma túy đá có khối lượng 100,8674 gam loại Methamphetamine cho người tên T1 (không rõ nhân thân lai lịch) từ huyện N , tỉnh Kon Tum đến thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để giao cho một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) theo số điện thoại mà T1 đã đưa cho C để liên lạc việc giao nhận ma túy. Xong việc, T1 sẽ trả cho C 5.000.000 đồng. Ngày 09/3/2018, khi đến điểm hẹn, C chưa kịp giao gói ma túy cho người nhận thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố B phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Võ Văn C đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 BLHS.

Điều 250 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào vận chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng 100 gam trở lên;

[3] Xét tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiệm trọng, bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” ,bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện cải tạo bản thân, đáng lẽ khi được T1 nhờ vận chuyển ma túy bị cáo phải báo với cơ quan chức năng hoặc chính quyền địa phương để ngăn chặn hành vi vận chuyển ma túy của T1, nhưng vì nghiện ma túy, hám lời, để có tiền tiêu xài bị cáo đã bất chấp pháp luật tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, đồng thời là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo Võ Văn C là đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, C phải xét xử nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài, có như vậy mới có tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời mới là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những người khác.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: không;Tình tiết giảm nhẹ:Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân có ông nội được tặng huy chương và có công cứu người đuối nước được chính quyền địa phương xác nhận, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Đối với người đàn ông tên T1 (không rõ nhân thân lai lịch) và người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) có số điện thoại mà T1 đã đưa cho C để liên lạc nhận ma túy. Qua tài liệu điều tra chưa xác định được nhân thân và lai lịch, nên chưa có đủ căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[5] Các biện pháp tư pháp:

- 100,4677 gam loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định là vật chứng vụ án và số sim điện thoại 0965982042 thu giữ của Võ Văn C là công cụ phạm tội C Tịch thu tiêu huỷ.

- 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO màu hồng đã cũ, màn hình bị nhiều vết nứt không rõ hình dạng là công cụ phương tiện Võ Văn C sử dụng vào việc phạm tội còn giá trị sử dụng, do vậy C tịch thu sung công quỹ Nhà nước

[6] Về án phí: Bị cáo Võ Văn C bị buộc là có tội, do vậy phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Xét quan điểm của đại diên Viện kiểm sát và Luật sư tại phiên tòa là phù hợp Hội đồng xét xử chấp nhận;

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn C phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Võ Văn C 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2018.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ: 100,4677 gam loại Methamphetamine mẫu vật còn lại sau giám định là vật chứng vụ án và số sim điện thoại 0965982042 thu giữ của Võ Văn C .

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại hiệu OPPO màu hồng đã cũ, màn hình bị nhiều vết nứt không rõ hình dạng là công cụ phương tiện Võ Văn C sử dụng vào việc phạm tội.

3. Về án phí: Bị cáo Võ Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo quyền kháng cáo; Bị cáo được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HS-ST ngày 17/09/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về