Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 07/06/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 06 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 63/2019/TLST-HNGĐ, ngày 28 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXX-ST ngày 28 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Văn L, sinh năm 1967.

Đa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

Bị đơn: Nguyễn Thị S, sinh năm 1975.

Đa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/02/2019 và trong quá trình xét xử nguyên đơn anh Nguyễn Văn L trình bày: Anh và chị S tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1997 nhưng đến ngày 23/10/2007 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì nẫy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải nhau, một số lần vợ chồng cải nhau do không giữ được bình tỉnh nên anh có đánh chị S, anh và chị S đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân anh chị không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hiện nay anh không còn tình cảm vợ chồng với S nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị S mà không có nguyện vọng đoàn tụ gia đình với chị S.

Về con chung: Trong thời gian chung sống với nhau anh chị có 03 con chung là Nguyễn Thị Hồng Tố O, sinh ngày 10/10/1999, Nguyễn Lục Chí C, sinh ngày 01/4/2001, Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 18/5/2005. Sau khi ly hôn anh L có nguyện vọng giao con chung là Nguyễn Ngọc Phương A cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh L đồng ý cấp dưỡng cho chị S nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đồng cho đến khi con thành niên. Đối với Nguyễn Thị Hồng Tố O và Nguyễn Lục Chí C hiện nay đã thành niên nên không đặt ra việc nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị S trình bày tại các bản lấy lời khai ngày 29/03/2019, 21/05/2019 và biên bản hòa giải không thành ngày 28/5/2019 như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác nhận chị và anh L tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1997, đến ngày 23/10/2007 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. Trong thời gian chung sống với nhau anh chị chung sống hạnh phúc không có gì mâu thuẫn trầm trọng nhưng thời gian gần đây do anh L có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên về nhà gây sự đánh đập chị, có lần anh L về còn đập phá đồ đạt trong gia đình, chị và anh L đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân anh chị không quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hiện nay anh L yêu cầu ly hôn với chị, chị không đồng ý vì chị muốn đoàn tụ gia đình cùng nhau chăm sóc các con.

Về con chung: Chị S xác nhận trong thời gian chung sống với nhau chị và anh L có 03 con chung là Nguyễn Thị Hống Tố O, sinh ngày 10/10/1999, Nguyễn Lục Chí C, sinh ngày 01/4/2001, Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 18/5/2005. Nếu Tòa án giải quyết cho anh L ly hôn với chị thì chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Ngọc Phương A, yêu cầu anh L cấp dưỡng cho chị nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đồng cho đến khi con thành niên.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về trình tự thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Toà án:

Theo đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn L yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị S, nơi cư trú của chị Nguyễn Thị S tại thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là vụ án “ Hôn nhân gia đình” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn chị Nguyễn Thị S do bận công việc nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung vụ án:

Xét về quan hệ hôn nhân: Xét thấy anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị S tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước vào ngày 23/10/2007. Căn cứ vào Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị S là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn L thấy rằng: Sau khi đăng ký kết hôn anh và chị S chung sống với nhau hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì nẫy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải nhau, nhiều lần anh chị còn xô xát lẫn nhau, vì vậy anh Nguyễn Văn L yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị S. Bị đơn chị Nguyễn Thị S xác nhận việc tự nguyện chung sống và tiến hành đăng ký kết hôn giữa chị và anh L như anh L yêu cầu khởi kiện là đúng, ngoài ra chị còn trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L có quan hệ tình cảm với người phục nữ khác về nhà gây sự đánh đập chị, đập phá đồ đạt trong gia đình. Tuy nhiên hiện nay chị có nguyện vọng về đoàn tụ gia đình với anh L để xây dưng gia đình hạnh phúc, cùng nhau chăm sóc các con. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị S đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, thực tế từ tháng 12 năm 2018 đến nay anh L và chị S đã sống ly thân, trong thời gian sống ly thân anh chị không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, do đó mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn L là phù hợp.

Xét về con chung thấy rằng: Sau khi ly hôn anh Nguyễn Văn L có nguyện vọng giao con chung là Nguyễn Ngọc Phương A cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh L đồng ý cấp dưỡng cho chị S nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đồng cho đến khi con thành niên. Chị Nguyễn Thị S đồng ý với nguyện vọng của anh L, cháu Nguyễn Ngọc Phương A cũng có nguyện vọng ở với mẹ nên cần giao cháu Nguyễn Ngọc Phương A cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng cho chị S nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đồng cho đến khi thành niên là phù hợp.

Đi với con chung là Nguyễn Thị Hồng Tố O và Nguyễn Lục Chí C, hiện nay đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì anh Nguyễn Văn L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn L là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227; Điều 266; Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83, Điều 84; Điều 116; Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn L, anh Nguyễn Văn L được ly hôn với chị Nguyễn Thị S.

[2] Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Phương A, sinh ngày 18/5/2005 cho chị Nguyễn Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Anh Nguyễn Văn L có nghĩa vụ cấp dưỡng cho chị Nguyễn Thị S nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đồng cho đến khi thành niên, phương thức cấp dưỡng được thực hiện định kỳ hằng tháng, thời gian bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của anh chị đối với con chung được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Đi với con chung là Nguyễn Thị Hồng Tố O, sinh ngày 10/10/1999, Nguyễn Lục Chí C, sinh ngày 01/4/2001 hiện nay đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Anh Nguyễn Văn L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp theo Biên lai thu số 0009193 ngày 28/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Anh Nguyễn Văn L còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 07/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về