Bản án 32/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm A (có tên gọi khác là Tí) sinh ngày 04 tháng 6 năm 1989, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú:, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm A và bà Trần Thị B; tiền án, tiền sự: Ngày 02/12/2016, bị Tòa án nhân dân quận C, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 01 năm 06 tháng (Quyết định số 244); bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/10/2018; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Th sinh năm 1980, nơi cư trú tại thị trấn M, tỉnh N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 50 phút ngày 11/10/2018, các chiến sĩ Công an Phường X, quận Y đang trên đường tuần tra, khi đến trước nhà số 18 đường T, Phường X, quận Y thì phát hiện Phạm A điều khiển xe gắn máy biển số 59G1 – 950.78, phía sau chở ông Nguyễn Thanh D có biểu hiện nghi vấn sử dụng chất ma túy trái phép nên đã đưa cả hai người về trụ sở công an phường làm việc. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần Jean phía trước bên phải của A có 01 gói nylon viền đỏ bên trong có 01 gói nylon viền đỏ chứa 07 viên nén gồm: 01 viên nén hình tròn màu xanh dương khắc chữ 0NETAGLETOK; 01 viên nén màu nâu khắc chữ Super; 01 viên nén màu xanh dương đậm khắc chữ homll; 01 viên nén hình chiếc lá màu xanh lá cây; 01 viên nén màu nâu khắc chữ có khắc chữ MONGCLER, 01 viên nén màu cam; 01 viên nén hình con nhộng một đầu màu cam, một đầu màu nâu. Bước đầu, Akhai nhận tất cả các viên nén là ma túy tổng hợp.

Ngoài ra còn tạm giữ của Phạm A 01 xe mô tô biển số 59G1 – 950.78 và 02 điện thoại di động hiệu Samsung.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy đối với Phạm A và Nguyễn Thanh D cho kết luận: Cả hai đều dương tính ma túy tổng hợp.

Kết luận giám định số 1693/KLGĐ-H ngày 17/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh ghi kết luận giám định:

- 01 viên nén hình tròn màu xanh dương đậm khắc chữ “0NETAGLETOK” được ky1 hiệu mẫu m1  cần giám định (đã nêu ở mục II.1) có khối lượng 0,6722g (không phẩy sáu bảy hai hai gam), không tìm thấy ma túy.

- 01 viên nén màu nâu khắc chữ “SUPER” được ký hiệu mẫu m2  cần giám định (đã nêu ở mục II.1) có khối lượng 0,6629g (không phẩy sáu sáu hai chín gam), không tìm thấy ma túy.

- 01 viên nén màu xanh dương đậm khắc chữ “Homll” được ký hiệu mẫu m3 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) có khối lượng 0,7178g (không phẩy bảy một bảy tám gam), không tìm thấy ma túy.

- 01 viên nén hình chiếc lá màu xanh lá cây được ký hiệu mẫu m4 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) có khối lượng 0,6233g (không phẩy sáu hai ba ba gam), không tìm thấy ma túy.;

- 01 viên nén màu nâu khắc chữ có khắc chữ “MONGCLER” được ký hiệu mẫu m5  cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5012g (không phẩy năm không một hai gam), loại MDMA.

- 01 viên nén màu cam được ký hiệu mẫu m6 cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5451g (không phẩy năm bốn năm một gam), loại MDMA.

- 01 viên nén hình con nhộng đầu cam đầu nâu được ký hiệu mẫu m7  cần giám định (đã nêu ở mục II.1) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3034g (không phẩy ba không ba bốn gam), loại MDMA.

Quá trình điều tra Phạm A khai: Do bản thân Anghiện ma túy từ năm 2004, đã nhiều lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn tái nghiện. Khoảng gần 23 giờ ngày 10/10/2018, Agặp đối tượng tên L (không rõ lai lịch) là bạn cai nghiện chung khi chấp hành cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy Số 3, Acó nhờ L đưa đi mua ma túy để sử dụng, Lâm đã dẫn Ađến ngã tư Hàng Xanh. Tại đây, A đưa cho L 1.200.000 đồng nhờ L mua ma túy giùm, L đi đâu một lúc rồi quay lại đưa cho A 01 bịch nylon có viền đỏ bên trong có số ma túy tổng hợp, A cất giấu số ma túy trên vào túi quần Jean phía trước bên phải để sử dụng dần. Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 11/10/2018, A rủ ông Nguyễn Thanh D là bạn gần nhà đi chơi thì bị Công an Phường X, quận Y phát hiện bắt quả tang. Số ma túy trên, A cất giữ nhằm mục đích sử dụng dần, chứ không nhằm mục đích nào khác. Ông Nguyễn Thanh D chỉ là bạn gần nhà của A được A rủ đi chơi cùng, việc A cất giấu ma túy trong người D không biết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh D khai:

Vào khoảng 12 giờ 50 phút ngày 11/10/2018, ông Nguyễn Thanh D có gặp Phạm A tại gần nhà, Arủ ông D đi chơi, A điều khiển xe gắn máy biển số 59G1 – 950.78, chở ông D đi đến trước nhà số 18 đường  , Phường X, quận Y thì các chiến sỹ Công an Phường X, quận Y phát hiện, bắt quả tang A cất giấu ma túy trong người. Việc A cất giấu ma túy trong người D không biết và cũng không sử dụng ma túy chung với A.

Kết quả xác minh xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision có số khung JF3307CY149060, số máy JF33E0149071 xác định xe này được cấp biển số 78D1-039.53 chủ xe là bà Lê Thị Th sinh năm 1980, nơi cư trú tại, xã M, tỉnh N. Năm 2017, bà D đã bán chiếc xe trên cho người đàn ông tên H (không rõ họ, lai lịch) với giá 3.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền theo quy định của pháp luật, bà Diễm tử chối quyền sở hữu.

Đối biển số xe 59G1 – 950.78 được cấp cho xe gắn máy nhãn hiệu Vespa Piaggio, chủ xe là bà Phạm Thị N, sinh năm 1990, cư trú tại nhà số 249/10 Khu phố 4, C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Ng khai hiện bà Ng vẫn đang sử dụng xe gắn máy nhãn hiệu Vespa Piaggio trên và không bị mất biển số xe

Phạm A khai mua chiếc xe trên trước khi bị bắt khoảng một tháng của một người đàn ông rao bán trên mạng iternet với giá 3.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục mua bán theo quy định của pháp luật.

Kết quả điều tra xác định: Phạm A đã có hành vi cất giấu bất hợp pháp chất ma túy thể rắn có khối lượng 1,3497 gam, loại MDMA trong túi quần đang mặc trên người với mục đích sử dụng.

Bản cáo trạng số 27/CTr-VKS ngày 30 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Phạm A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phạm A thừa nhận hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Phạm A đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy thể rắn có khối lượng 1,3497 gam, loại MDMA nhằm mục đích sử dụng, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Phạm A về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù. Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Bị cáo Phạm A đã có hành vi cất giấu 01 túi nylon bên trong có 07 viên nén các loại là ma túy thể rắn trong túi quần trước bên phải thì bị bắt quả tang tại trước nhà số 18 đường Xuân Hồng, Phường 4, quận Tân Bình. Như vậy, Phạm A đã có hành vi cất giấu bất hợp pháp chất ma túy để sử dụng, không nhằm mục đích khác. Theo Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì trong 07 viên nén các loại có 04 viên nén không tìm thấy chất ma túy, 03 viên nén còn lại là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3497 (một phẩy ba bốn chín bảy gam), loại MDMA. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng tệ nạn xã hội, phát sinh các tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, làm giảm sút sức lao động trong xã hội nên phải xử lý nghiêm.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ xử ở khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đã tỏ ra ân hận với lỗi lầm. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về nhân thân của bị cáo đã nhiều lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính thì bị cáo lại tái nghiện và đã thực hiện hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân của bị cáo và việc phòng ngừa loại tội phạm này trong tình hình hiện nay tại địa bàn quận Tân Bình, Hội đồng xét xử thấy cần xử trên mức khởi điểm của khung hình phạt và cách ly một thời gian thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và tài sản:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành và biển số xe mang số 59G1-950.78 không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử thấy cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision có số khung JF3307CY149060, số máy JF33E0149071 là phương tiện bị cáo dùng vào việc đi mua ma túy. Quá trình điều tra chưa làm rõ được người quản lý hợp pháp nên Hội đồng xét xử thấy cần giao cho Công an quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một thời gian, nếu không xác định được người quản lý hợp pháp thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật dân sự.

- Tài sản của bị cáo đang bị tạm giữ là 02 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, quá trình điều tra không chứng minh được có liên quan đến tội phạm nên Hội đồng xét xử thấy cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Những vấn đề nêu trên thể hiện, về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Phạm A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm A 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2018.

[2] Về xử lý vật chứng và tài sản: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 2 Điều 228 Bộ luật dân sự, tuyên:

- Tịch thu và tiêu hủy 01 gói niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Tấn Quốc ghi số 1693 (Tang vật ma túy còn lại sau khi giám định) và biển số xe mang số 59G1 - 950.78.

- Giao xe gắn máy nhãn hiệu Honda Vision có số khung JF3307CY149060, số máy JF33E0149071 cho Công an quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau một năm nếu không xác định được người quản lý hợp pháp thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Trả lại cho bị cáo Phạm A 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số máy 357213/06/943917/0 có pin + simcard; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số imei 353319/09/126280/5 có pin và simcard nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng và tài sản trên theo lệnh nhập kho vật chứng số 23 ngày 04/01/2019 và phiếu nhập kho vật chứng số 40 ngày 23/01/2019 của Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Phạm A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

[5] Về quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm:

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về