Bản án 32/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 32/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay ngày 25 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/HSST ngày 26/3/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/QĐXXST-HS ngày 11/4/2019 đối với bị cáo:

Hà Văn H (tên gọi khác: không), sinh ngày 23 tháng 04 năm 1994, tại huyện M, tỉnh S; Nơi đăng ký NKTT: Thôn 2, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bị cáo con ông: Hà Văn H, sinh năm 1960 và bà  Hoàng Thị T, sinh năm 1964; có vợ là Nguyễn Phương T, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2015, bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 16/01/2019 đến nay, bị cáo có mặt.

Người bị hại:

1. Công ty cổ phần tập đoàn H (B) chi nhánh tại Sơn La, Địa chỉ: Tổ 5, phường C, thành phố S; Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn M - Giám đốc chi nhánh; Có ý kiến xin vắng mặt.

2. Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1993; Nơi làm việc: Công ty cổ phần tập đoàn H (B) Chi nhánh tại S; Tạm trú: Tổ 5, phường C, thành phố S; Có ý kiến xin vắng mặt.

3. Phạm Công Tuấn A, sinh năm 1993, Nơi làm việc: Công ty cổ phần tập đoàn H (B) Chi nhánh tại S; Tạm trú: Tổ 5, phường C, thành phố S; Có ý kiến xin vắng mặt.

4. Trần Vũ H, sinh năm 1990, Nơi làm việc: Công ty cổ phần tập đoàn H (B) Chi nhánh tại S; Tạm trú: Tổ 5, phường Chiềng S, thành phố S; Có ý kiến xin vắng mặt.

5. Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1991; Nơi làm việc: Công ty cổ phần tập đoàn H (B) Chi nhánh tại S; Tạm trú: Tổ 5, phường C, thành phố S; Có ý kiến xin vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Lò Văn T, sinh năm 1994; Nơi đăng ký HKTT: Bản N, xã C, huyện M; Có ý kiến xin vắng mặt.

2. Hà Thị Đ, sinh năm 1971; Bản N, xã C, huyện M; Có ý kiến xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h30’ ngày 10/01/2019, Hà Văn H đi bộ từ nhà tại thôn 2 - xã Chiềng M - huyện M - Sơn La lên thành phố Sơn La mang theo 01 con dao nhọn dài 30cm, 01 chiếc kìm bằng kim loại dài 15cm, đội mũ len màu đen, đeo gang tay len với mục đích xem nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 23h00 cùng ngày, H đi đến khu vực trụ sở Công ty cổ phần tập đoàn H (B) chi nhánh tại S thuộc khu vực tổ 5, phường C, thành phố S (trụ sở chi nhánh và xưởng sản xuất, kho chứa hàng cùng chung một địa điểm) bị can quan sát thấy có một tấm tôn quây quanh xưởng lỏng lẻo nên dùng kìm vặn 02 ốc vít của tấm tôn ra và luồn người chui vào trong trụ sở Công ty. Khi vào bên trong, Hải thấy mọi người đã ngủ hết, Hải đi tới 01 phòng ngủ của công nhân thấy có 01 đôi giầy thể thao màu đỏ đen nhãn hiệu Bitis Hunter để ở dưới nền nhà, H tháo giầy của H ra (đôi giày màu đen, không rõ nhãn hiệu) và lấy đôi giầy thể thao màu đen đi vào chân, rồi đi vào phòng làm việc của Công ty. Tại đây, H thấy 02 máy tính xách tay (01 chiếc nhãn hiệu DELL và 01 chiếc nhãn hiệu ASUS), H lấy cả 02 máy tính xách tay cùng sạc pin cho vào 01 túi đựng máy tính màu đen nhãn hiệu HP để trên bàn rồi xách ra khỏi phòng. Khi ra khỏi phòng làm việc, H nhìn thấy 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA WAVE màu vàng đen, biển kiểm soát 26B1-986.72 đang dựng trong xưởng có cắm sẵn chìa khóa, H dắt chiếc xe ra sát cửa cuốn, bấm cửa lên và nổ máy điều khiển xe theo hướng về thành phố. Khi đi đến khu vực ngã ba Mồ Côi, H rẽ trái điều khiển xe đi đến khu vực dốc Ân Sinh - xã Chiềng Mung - huyện Mai Sơn, H dừng xe bỏ mũ len và gang tay vào trong cốp xe, dùng kìm tháo 01 chiếc gương chiếu hậu bên phải vứt ở bên lề đường (H không nhớ đã vứt chiếc gương đó ở chỗ nào) rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi về đến nhà H mở túi ra xem thì thấy trong túi có 01 ví da màu đen, 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C, 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 chứng minh thư nhân dân, 01 thẻ ATM (của ngân hàng Vietcombank) đều mang tên Nguyễn Ngọc N. Đến sáng ngày 11/01/2019, H tháo biển kiểm soát ra cất vào trong cốp xe mô tô. Chiếc ví da và giấy phép lái xe sau đó bị can để ở giường ngủ của vợ chồng. Bị can đưa cho Nguyễn Văn N (là em vợ) giữ hộ 01 CMND, 01 thẻ ATM (của ngân hàng Vietcombank) và 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc N.

Ngày 12/01/2019, H mang chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS đi bán cho anh Lò Văn T sinh năm 1995, trú tại bản Nong N - xã C - huyện M với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Khi mua anh T không biết đó là tài sản do H trộm cắp mà có.

Đến ngày 15/01/2019, H mang chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL bán cho anh Hà Văn S sinh năm 1992, trú tại bản Nà Hạ 1 - xã Chiềng M - huyện M với giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) nhưng do lúc đó S không có tiền nên H để lại chiếc máy tính và vay của bà Hà Thị Đ (mẹ S) 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Số tiền bán 02 chiếc máy tính trên H đã tiêu sài cá nhân hết.

Ngày 15/01/2019, H lấy chiếc biển kiểm soát trước đó đã cất trong cốp xe mô tô ra lắp lại rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu vàng đen BKS 26B1-986.72 chở Lèo Duy T, trú tại bản N - xã Chiềng M - huyện M - tỉnh Sơn La đến cầm cố chiếc xe tại quán điện tử GAME PRO của anh Hà Văn Q, trú tại bản N, xã C, huyện M thuộc bản P, xã C, huyện M (trên đường đi, H đã vứt  chiếc kìm, gang tay và mũ len gần khu vực nhà máy gạch Chiềng Mung - Mai Sơn). Tại đây, qua trao đổi, anh Hà Văn Q đồng ý cho Hà Văn H cầm cố chiếc xe mô tô trên với giá 8.000.000đ, khi H cầm tiền vừa đi ra đến cửa quán thì có anh Giàng A C (là nhân viên của Công ty cổ phần tập đoàn H (B) chi nhánh tại tổ 5, phường C, thành phố S) đang ở quán phát hiện và nói với anh Q là chiếc xe trên của Công ty cổ phần tập đoàn H (B) tại Sơn La bị kẻ gian lấy trộm mấy ngày hôm nay, nghe anh C nói như vậy anh Q đã lấy lại số tiền trên, thấy vậy H để lại chiếc xe mô tô và bỏ chạy. Ngày 16/01/2019, anh Giàng A C đã giao nộp chiếc xe trên và 01 bản phô tô công chứng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy BKS 26B1-986.72 cho Cơ quan điều tra - Công an thành phố Sơn La.

Quá trình điều tra: Bị cáo Hà Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên; những người bị hại đã được trả lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu nào khác.

Ngày 17/01/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La đã ra yêu cầu định giá tài sản đối với vật chứng của vụ án gồm: 01 xe máy nhãn hiệu honda màu vàng BKS 26B1-986.72; 01 gương chiếu hậu; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL; 01 túi đựng máy tính xách tay màu đen nhãn hiệu HP; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS; 01 ví màu đen; 01 đôi giày thể thao màu đỏ đen nhãn hiệu Bitis Hunter.

Ngày 22/01/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự  - UBND thành phố Sơn La, có kết luận định giá số 05/KL-HĐGTS: Tổng giá trị tài sản xác định là: 20.925.000 đồng (Hai mươi triệu chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng) .

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 39/CT-VKSTP, ngày 25/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Hà Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn H từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Tổng hợp với hình phạt của bản án số 04/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hà Văn H phải bồi thường cho người có quyền lợi liên quan anh Lò Văn T 500.000đ, bà Hà Thị Đ 500.000đ; chấp nhận những người bị hại đã nhận lại đủ tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu nào khác.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 giày của bị cáo Hà Văn H; Chấp nhận việc cơ quan điều tra trả lại tài sản cho những bị hại.

- Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra:

- Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả định giá tài sản; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; tại phiên tòa bị cáo nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa: Những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều xin vắng mặt tại phiên tòa; người bị hại không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và gửi ý kiến đến Hội đồng xét xử, việc vắng mặt của những người bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều có lời khai nhận tội thống nhất, ngày 10/01/2019, Hà Văn H đã lén lút chiếm đoạt tài sản với tổng trị giá 20.925.000đ. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm phạm tội cùng vật chứng thu giữ là toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt của những người bị hại (Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại); Kết quả định giá tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là: 20.925.000 đồng.

[4] Đầy đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Hà Văn H đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác với trị giá 20.925.000đ. Bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, bị cáo Hà Văn H đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ngày 16/01/2019 Tòa án nhân dân thành phố Sơn La xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, lần phạm tội này bị cáo thực hiện vào ngày 10/01/2019, là thời gian đang được tại ngoại chờ xét xử về hành vi phạm tội trước đó, nên không xác định thuộc trường hợp tái phạm, mà bị cáo sẽ phải chịu tổng hợp hình phạt của hai bản án.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo với mức tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[8] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung là không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Vật chứng vụ án: Đối với một đôi giày bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, giá trị sử dụng thấp, nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về Trách nhiệm dân sự:

- Những người bị hại đã được trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu nào khác, đây là sự tự nguyện của người bị hại, cần chấp nhận.

- Bị cáo Hà Văn H phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn T 500.000đ, bà Hà Thị Đ 500.000đ.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Hà Văn H: 16 (mười sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 08 tháng tù của bản án số 04/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 16/01/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 586, khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự:

Chấp nhận những bị hại đã được trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu nào khác.

Buộc bị cáo Hà Văn H phải bồi thường cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cụ thể:

- Anh Lò Văn T 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

- Bà Hà Thị Đ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi giày màu đen không rõ nhãn hiệu, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/3/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1  Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm ngìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/4/2019).

Những bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án  theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về