Bản án 323/2019/HS-PT ngày 30/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 323/2019/HS-PT NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/5/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 136/2019/TLHS-PT ngày 12/02/2019 do có kháng cáo của bị cáo L, Nguyễn Thị V, Đào Thị T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2019/HS-ST ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. L (phiên dịch tiếng Việt Nam: L), sinh ngày 19/09/1979; nơi cư trú: Thôn B, thị trấn P, huyện B, tỉnh Q, Trung Quốc; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Tiểu học; giới tính: Nam; dân tộc: Hán; tôn giáo: Không; quốc tịch: Trung Quốc; con ông Liêu Vận M và bà Diệp Khánh A; vợ: M; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam từ ngày 11/7/2018 đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Thị V, sinh ngày 20/4/1993; nơi cư trú: Khu 2, phường L, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Ngô Thị Ph; chồng: Chưa có; bị cáo có 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 12/7/2018 đến nay, có mặt.

3. Đặng Thị Th, sinh ngày 07/11/1995; nơi cư trú: Khu 4, phường H, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông 1 Đặng Văn T và bà Đặng Thị K; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ và tạm giam từ ngày 12/7/2018 đến nay, có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo L: Ông Đào Bá Y và bà Hà Thùy D, Luật sư Văn phòng Luật sư A, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị V: Ông Vũ Hồng H, Luật sư Văn phòng Luật sư T, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Đào Thị V: Bà Nguyễn Thị Trà M, Luật sư Công ty luật TNHH B, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ ngày 11/7/2018, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp cùng Đội kiểm soát phòng chống ma túy Hải quan tỉnh Quảng Ninh làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa quán Karaoke Vision thuộc khu 3, phường T, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh phát hiện và bắt quả tang L (phiên âm tiếng Việt là L), có hành vi mua bán trái phép chất ma túy; Thu giữ trong túi quần đùi bên phải phía trước của L 01 túi ni long màu trắng, loại có khóa kẹp một đầu, kích thước khoảng (4x6)cm bên trong chứa 10 viên nén hình trụ tròn màu trắng ngà, trên một mặt mỗi viên nén in hình ngôi sao năm cánh có tổng khối lượng là 2,604 gam. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của L: 01 xe mô tô màu trắng, nhãn hiệu Vespa, biển số 14K1 - A; 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo; 01 chứng minh; 01 hộ chiếu mang tên L và 300.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số: 529 ngày 20/7/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận 2,604 gam thu giữ của L là ma túy loại MDMA.

Tại Cơ quan điều tra, L khai nhận 10 viên nén thu giữ là ma túy mua của Đồng Cao tại Đông Hưng, Trung Quốc đem sang quán Karaoke Vision để bán cho A với giá 50 nhân dân tệ/1 viên nhưng chưa kịp bán thì bị Công an phát hiện, bắt giữ. L còn khai: Trước đó, T đã nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn Thị V nhà ở khu vực gần cửa khẩu C, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ lời khai ban đầu của L, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị V tại số nhà 18, đường Hoàng Quốc Việt, thuộc khu 1, phường T, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh đã phát hiện thu giữ 95 túi nilon, trên 2 mặt của túi có chữ Trung Quốc và in hình cây nấm, chứa chất bộ màu vàng kem là ma túy loại Nimetazepam, khối lượng 104,182 gam; 02 túi nilon chưa chất bột màu trắng là ma túy loại TFMPP, MDMA, Nimetazepam, khối lượng 2,657 gam; 01 túi nilon chứa chất bột màu vàng nhạt có: Terpin, p-Acetamidophenol, Ketamine, Codeine; khối lượng 0,795 gam; 01 túi nilon chứa chất bột màu trắng có: Terpin, Codeine; khối lượng: 2,045 gam; 02 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy Ketamine, khối lượng: 7,908 gam. (Theo Kết luận giám định số 529, ngày 20/7/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh). Ngoài ra còn thu giữ 01 cân điện tử, 01 chứng minh nhân dân mang tên: Nguyễn Thị V và 27.500.000 đồng.

Quá trình điều tra, đã xác định hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án như sau:

Nguyễn Thị V quen biết L vào đầu tháng 01/2018. Cuối tháng 3 năm 2018, L nói cho V biết việc L bán ma túy và nhờ V cất giấu hộ ma túy, V đồng ý. Từ đầu tháng 4 năm 2018 đến ngày 11/7/2018, L đã 6 lần giao ma túy cho V cất giấu để bán, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: vào ngày 01/4/2018, L giao cho V 30 túi ma túy loại “nước vui” có in chữ Ferrari ở trên mặt túi, khoảng 2 ngày sau T đến nhà V lấy mang đi sử dụng cùng bạn bè.

Lần thứ hai: Vào ngày 09/4/2018, T giao cho V 60 túi ma túy loại “nước vui” có in chữ Ferrari ở trên mặt túi, tại địa điểm trước cửa nhà trọ của V khoảng 3 ngày sau, T đến lấy hết số ma túy trên để sử dụng cùng bạn bè tại thành phố C.

Lần thứ ba: Vào ngày 23/4/2018, T đem 100 túi ma túy loại “nước vui” trên mặt túi có in chữ Ferrari, cất giấu và vúi đồ ăn đến trước cửa nhà trọ giao cho V, sau đó khoảng 2 ngày T đến lấy mang đi sử dụng và bán cho một số người mới quen tại thành phố C.

Lần thứ 4: Vào đầu tháng 5/2018, T giao cho V 343 túi ma túy, trong đó có 150 túi trên mặt có in chữ Ferrari, 167 túi trên mặt có in hình cây nấm, 7 túi trên mặt có in chữ Maka và 19 túi trên mặt in hình chiếc lá màu trắng. Toàn bộ số ma túy trên được đóng trong túi đồ ăn, T giao cho V trước cửa nhà V. Trong số ma túy trên T đến gặp V lấy 133 túi mang đi sử dụng và bán cho khách, còn lại 210 túi T bảo V giao cho S là người của T mang về Trung Quốc để bán.

Trong bốn lần nêu trên, T trả công cho V bằng việc mời đi chơi, đi ăn và cho sử dụng ma túy ở quán bar và quán Karaoke.

Lần thứ năm: Do biết V và Th chơi cùng nhau, từ cuối tháng 5 năm 2018, L bảo V và Th bán giúp ma túy loại Ketamine, thuốc lắc và “nước vui”, nhưng Th và V chỉ đồng ý bán ma túy loại “nước vui” và thỏa thuận L bán cho V 01 túi với giá 220 Nhân dân tệ, còn V bán cho khách với giá 300 tệ 1 túi, được lãi 80 nhân dân tệ. Sau khi thống nhất xong, ngày 21/6/2018, T đến nhà V, giao cho V 221 túi ma túy trên mặt có in chữ Ferrari được cất giấu trong vỏ hộp bánh. V bảo Th lấy băng dính buộc 10 túi ma túy thành 1 gói, cho vào hộp cất giấu, khi có khách thì bán. V và Th bán được 70 túi ma túy số còn lại giao cho L bán hết. Khoảng 4 ngày sau L sang C gặp V lấy tiền, nhưng V mới đưa cho T 10.000 Nhân dân tệ. Sau mỗi lần L giao nhận ma túy với V, để tránh mất mát, V và Th đều ghi chép vào sổ để quản lý.

Lần thứ sáu: Vào ngày 23/6/2018, L giao cho V 259 túi ma túy loại có in hình cây nấm trên mặt túi. V lại bảo Th lấy băng dính buộc 10 túi ma túy thành 1 gói khi có khách thì bán hoặc giao cho L bán. Lần này V và Th bán được 59 túi, L bán được 105 túi, còn lại 95 túi chưa kịp bán thì bị Công an khám xét phát hiện thu giữ.

Chiều ngày 11/7/2018, T mua 10 viên thuốc lắc của Đồng Cao tại Đông Hưng, Trung Quốc với giá 80 Nhân dân tệ. Sau khi mua được thuốc lắc, T cất giấu trong người rồi rủ Thiếu Phong là bạn gần nhà đi cùng đến thành phố C chơi. Tuy nhiên, T đến thành phố C với mục đích là để bán 10 viên thuốc lắc mới mua cho một thanh niên Trung Quốc tên A với giá 500 Nhân dân tệ, nhưng T không nói cho Thiếu Phong biết mục đích này. Đến thành phố C, T mượn xe máy của V rồi lái xe chở Thiếu Phong đi đến trước cửa quán Karaoke Vision để bán ma túy cho A thì bị Cơ quan Công an Việt Nam bắt quả tang thu giữ 10 viên thuốc lắc trong túi quần đùi bên phải phía trước của T đang mặc.

Trong quá trình điều tra ban đầu, Liên T khai nhận hành vi phạm tội nêu trên. Khách mua ma túy của T phần lớn là người không quen biết, trong đó có C, S, Q, S nhà ở C, còn cụ thể ở đâu L không biết. Nguyễn Thị V và Đặng Thị Thủy đều khai nhận hành vi phạm tội nêu trên. Ngoài mua ma túy của L, V còn mua ma túy của người khác để sử dụng, cụ thể như sau:

Từ tháng 4 đến tháng 6/2018, V đã hai lần mua ma túy, loại Ketamine của Bùi Mạnh H, trú tại khu 2, phường T, thành phố C. Lần thứ nhất mua một túi giá 5.000.000 đồng, H1 là người trực tiếp giao ma túy; lần thứ 2 cùng bạn tên là Nguyễn Thùy D mua một túi giá 2.000.000 đồng. lần này, H1 bảo Trần Quang H2 cầm ma túy đến giao cho V.

Trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6/2018, V đã mua ma túy, loại Ketamine của Nguyễn Văn A, ở thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định ba lần, mỗi lần mua từ 2.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng, cả 3 lần này Th là người đi nhận Ketamine giúp V.

V đã nhiều lần bán ma túy cho Nguyễn Văn A làm DJ quán Karaoke K; Hoàng Công Hậu ở khu cầu Voi, xã Vạn Ninh, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Lê Khánh L ở khu 2, phường T, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Nguyễn Thu Hương trú tại khu 1, phường H, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; Bùi Mạnh H, trú tại khu 2, phường T, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh và một số đối tượng khác không nhớ tên.

Tham gia vào việc bán ma túy của V còn có Đặng Thị Th, Th là người kiểm đếm sau đó chia nhỏ thành các gói ma túy giúp V. Khi V không ở nhà nếu có khách mua ma túy thì Th bán, hoặc V gọi điện về cho Th bảo Th bán ma túy cho khách bằng cách ném túi ma túy cho khách đợi bên dưới phòng ở của V.

Trong số ma túy Cơ quan Công an thu giữ của V có 02 gói ma túy vỏ màu xanh vàng là của Nguyễn Thùy D để lại, số Ketamine V mua của một người đàn ông Trung Quốc, không biết tên trong một lần đi nhảy tại thành phố C. Toàn bộ số ma túy trên V cất giấu để sử dụng, nếu có khách mua thì bán.

Trong vụ án này, các túi nilon chứa ma túy loại trên mặt túi có in chữ Ferrari, loại in chữ Maka và loại in hình Lá bạc các bị cáo đã bán hết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh không thu giữ được nên khôn g có căn cứ để giám định chất ma túy. Do đó, không xác định được lượng ma túy mà các bị cáo đã bán đối với các loại nêu trên.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2019/HS-ST ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt L (L) 20 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2018.

Áp dụng điển h khoản 4 Điều 250; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Thị V 17 năm tù, Đào Thị T 16 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2018.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/01/2018 bị cáo L có đơn kháng cáo cho rằng mình chỉ buôn bán thuốc tăng lực, đề nghị giám định hàm lượng chất ma túy; ngày 10/01/2018 các bị cáo Nguyễn Thị V, Đào Thị T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Các bị cáo trình bày:

- Bị cáo L trình bày: Bị cáo chỉ buôn bán thuốc tăng lực, loại thuốc này tại Trung Quốc không cấm nên việc kinh doanh là hợp pháp; bị cáo không hiểu rõ quy định của Việt Nam, Loại thuốc bị cáo kinh doanh có hàm lượng chất ma túy thấp, nên đề nghị giám định hàm lượng tinh chất ma túy có trong loại thuốc mà bị cáo kinh doanh; cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 20 năm tù là quá nặng, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo V trình bày: Bị cáo trình độ văn hóa thấp nên nhận thức pháp luật bị hạn chế, không am hiểu pháp luật; bản thân không có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang một mình nuôi con nhỏ; bị cáo rất ân hận. Hơn nữa, cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo có bác ruột là liệt sỹ, ông ngoại là người có công.

- Bị cáo Th trình bày: Bị cáo thấy mức án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là quá nặng; bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ có ông ngoại là Đặng Văn Lâm và bà ngoại là Trần Thị Lan là người có công; có cậu là liệt sỹ, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Xét kháng cáo của các bị cáo thấy: Đối với kháng cáo của bị cáo L đề nghị giám định hàm lượng chất ma túy, quá trình điều tra Cơ quan Điều tra đã trưng cầu giám định xác định được loại ma túy cụ thể, nên đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo V, Th thấy rằng: Cả hai bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo L, các bị cáo chủ yếu giúp L trong việc đóng gói, cất giữ; có nhiều lần L chỉ gửi ma túy tại nhà V sau đó mang đi dùng hết, cả hai bị cáo không tham gia mua bán; vai trò của hai bị cáo giúp sức không đáng kể; tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết mới; các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, gia đình các bị cáo có công với cách mạng, có bác, cậu là liệt sỹ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của cả hai bị cáo, giảm cho mỗi bị cáo từ 3 đến 4 năm tù.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo phát biểu:

- Luật sư bào chữa cho bị cáo L trình bày: Về tội danh nhất trí như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì thêm. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, như: Không áp dụng điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bởi vì, ngoài hành vi bị bắt quả tang thì bị cáo L còn tự thú, khai nhận ra những hành vi đã thực hiện trước đó mà chưa bị phát hiện; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, chưa có tiền án, tiền sự; số lượng ma túy chưa được trừ đi số ma túy bị cáo đã sử dụng; từ đó xử phạt bị cáo mức án 20 năm tù là có phần nghiêm khắc, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo V, Th trình bày: Nhất trí như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát; các bị cáo đã khai báo thành khẩn, cả hai bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới, như: Gia đình các bị cáo có ông ngoại, bà ngoại là người có công được tặng thưởng nhiều huân, huy chương; có bác, cậu là liệt sỹ; đối với bị cáo V có công phát hiện, giúp đỡ Cơ quan có trách nhiệm điều tra, xử lý tội phạm. Bị cáo Th chỉ tham gia mua bán ma túy hai lần sau cùng nên số ma túy sẽ ít hơn bị cáo L và bị cáo V. Từ đó các Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo để giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Th giảm từ 5 đến 6 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi như Bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của người làm chứng, các chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án, Kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2018 đến tháng 7 năm 2018 bị cáo L đã nhiều lần đưa ma túy nhờ Nguyễn Thị V và Đặng Thị Th cất giữ và bán hộ với tổng khối lượng 466,896 gam Nimetazepam và các chất ma túy ở thể rắn khác. Hành vi đó của các bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo theo điểm h khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; các bị cáo không oan. Luật sư bào chữa cho bị cáo L cũng như bị cáo đề nghị giám định hàm lượng chất ma túy là không có căn cứ, vì quá trình điều tra Cơ quan Điều tra đã trưng cầu giám định và đã xác định được các loại ma túy.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; các bị cáo nhận thức rõ được tác hại của chất ma túy nhưng mong muốn kiếm tiền nhanh bằng con đường bất hợp pháp, cũng như có ma túy để sử dụng nên sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi đó của các bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, tiếp tay cho các đối tượng buôn bán cái chết trắng. Ma túy là nguồn gốc lây lan các căn bệnh xã hội, là nguyên nhân dẫn đến bao gia đình tan nát và là mầm mống của các loại tội phạm. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Đối với kháng cáo của L: Như đã phân tích trên, Cơ quan Điều tra đã trưng cầu giám định xác định được chất ma túy, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ kinh doanh thuốc tăng lực là không có căn cứ. Vì, các chất ma túy bị cáo mua bán đều trong danh mục Nhà nước Việt Nam cấm mua bán, lưu hành nên hành vi của bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam. Khi xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhưng chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Ngoài hành vi bị bắt quả tang bị cáo còn tự thú ra những hành vi trước đó chưa bị phát hiện, nên đã xử phạt bị cáo L 20 năm tù là có phần nghiêm khắc; tại cấp phúc thẩm cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ qua định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt như đề nghị của Luật sư là có căn cứ, thể hiện được chính sách nhận đạo đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải, tự thú. Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là chưa phù hợp.

Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo V và Th thấy: Cả hai bị cáo thực hiện tội phạm với vai trò đồng phạm giúp sức; các bị cáo phạm tội không nhằm mục đích hưởng lợi nhuận mà chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, trong 04 lần phạm tội đầu bị cáo V chỉ giúp sức cho L cất giấu ma túy, sau đó L mang đi sử dụng hết, bị cáo không thực hiện hành vi giao dịch mua bán và cũng không được hưởng tiền chênh lệch mà chỉ được L trả công bằng việc mời đi ăn chơi và sử dụng ma túy; cả hai bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức nhưng không đáng kể. Vì L chỉ để ma túy tạm thời tại nhà V sau đó lấy đi bán hoặc sử dụng; các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như khai báo thành khẩn và thật sự ăn năn hối cải, cả hai bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; tại cấp phúc thẩm có thêm tình tiết giảm nhẹ mới như: Bị cáo V có bác ruột Ngô Văn Tới là liệt sỹ, ông ngoại Ngô Văn Giới là người có công nên được tặng thưởng nhiều huân, huy chương; bị cáo Th có cậu Đoàn Hồng Sự là liệt sỹ, ông ngoại Đặng Văn Lâm và bà ngoại Trần Thị Lan là người có công được tặng thưởng huân huy chương. Vì vậy, cần chấp nhận kháng cáo của cả hai bị cáo, áp dụng thêm Điều 54 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo V, Th như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là có căn cứ, phù hợp với pháp luật, thể hiện được chính sách nhân đạo đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải.

[4] Các bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải nộp án phí phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo L (L), Nguyễn Thị V, Đào Thị T; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2019/HS-ST ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

- Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; phạt bị cáo L (phiên dịch tiếng Việt Nam L) 19 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2018.

- Áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; phạt bị cáo Nguyễn Thị V 14 (mười bốn) năm tù; xử phạt bị cáo Đào Thị T 13 (mười ba) năm tù đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày 12/7/2018.

Về án phí: Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số: 01/2019/HS-ST ngày 04/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 323/2019/HS-PT ngày 30/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:323/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về