Bản án 331/2019/DS-PT ngày 17/12/2019 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 331/2019/DS-PT NGÀY 17/12/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 17 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 293/2019/TLPT-DS ngày 14 tháng 11 năm 2019.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 43/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 271/2019/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1968 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện N, tỉnh C.

Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh B – sinh năm 1983 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C.

Chị Lê Thị Tuyết N – sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện N, tỉnh C.

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, bà Nguyễn Thị H trình bày: Vào khoảng năm 2011, 2012 anh Nguyễn Thanh B cùng vợ là Lê Thị Tuyết N có tham gia chơi hụi do bà làm chủ gồm các phần hụi 500.000 đồng và hụi 300.000 đồng, hiện tại các phần hụi đều đã mãn. Phía anh B và chị N đã hốt hết các phần hụi, sau đó chốt hụi và thừa nhận thiếu bà tổng số nợ là 35.280.000 đồng, chị N và anh B đã trả được 16.000.000 đồng hiện còn nợ lại bà số tiền 19.280.000 đồng bà yêu cầu anh B và chị N trả nhiều lần, chị N hứa sẽ trả từ từ nhưng đến nay chị N và anh B không trả, do đó bà H yêu cầu chị N và anh B trả 19.280.000 đồng.

Bị đơn, anh Nguyễn Thanh B trình bày: Anh thừa nhận vào khoảng năm 2009 vợ chồng anh có tham gia 02 chân hụi 1.000.000 đồng do bà H làm chủ, không nhớ hụi bao nhiêu chân, vợ chồng anh hốt hết các phần hụi này và còn nợ bà H 26.400.000 đồng. Tiếp đó, vợ chồng anh có tham gia 05 chân hụi ngày 20.000 đồng, gồm 80 chân do bà H làm chủ và vợ chồng anh đã hốt hết phần hụi này để trả số tiền của phần hụi 1.000.000 nêu trên. Sau đó, vợ chồng anh tiếp tục tham gia 02 lần hụi ngày 20.000 đồng mỗi lần 05 chân gồm 80 chân cũng do bà H làm chủ, vợ chồng anh cũng đã hốt hết và còn nợ bà H khoảng 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, phía bà H thống nhất cho trả dần. Tháng đầu vợ chồng anh trả được 3.000.000 đồng, những tháng tiếp theo có tháng trả được 1.000.000 đồng, có tháng trả 2.000.000 đồng và trả thêm 7, 8 lần nữa xem như không còn nợ bà H.

Việc bà H xác định có chốt nợ với vợ anh hay không anh không rõ và khoản nợ bà H yêu cầu theo anh nghĩ bà H tính lãi do vợ chồng anh chậm trả, số tiền bà H yêu cầu 19.280.000 đồng vợ chồng anh đã trả đủ cho bà H hiện không còn nợ nên anh không chấp nhận yêu cầu của bà H đặt ra.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 43/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Thanh B và chị Lê Thị Tuyết N đòi thanh toán nợ hụi còn thiếu. Buộc anh Nguyễn Thanh B và chị Lê Thị Tuyết N có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền hụi 19.280.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14/10/2019 bị đơn là anh Nguyễn Thanh B kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của bà H.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Vin kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông B, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Thanh B, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc anh B thừa nhận anh B và và chị N tham gia chơi hụi do bà H làm chủ và có thiếu nợ tiền hụi của bà H vào khoảng năm 2011, năm 2012 và anh B và chị N có trả nợ cho bà H nhưng không nhớ bao nhiêu. Bà H cho rằng tổng số tiền anh B và chị N nợ là 35.280.000 đồng, chị N và anh B đã trả được 16.000.000 đồng hiện còn nợ lại bà số tiền 19.280.000 đồng Tại biên bản hòa giải ngày 18/01/2019 của UBND xã Tân Ân cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, anh B xác định có nợ của bà H 19.280.000 đồng nhưng anh B và chị N đã trả xong. Do anh B và chị N thừa nhận nợ bà H 19.280.000 đồng nhưng không có chứng cứ chứng minh đã thanh toán nợ cho bà H xong khoản nợ mà bà H yêu cầu, do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà H buộc anh B và chị N trả cho bà H số tiền 19.280.000 đồng là phù hợp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, anh B không có chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh B nên anh B phải chịu án phí theo quy định.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh B.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 43/2019/DS-ST ngày 04/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Thanh B và chị Lê Thị Tuyết N.

Buộc anh Nguyễn Thanh B và chị Lê Thị Tuyết N có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền hụi 19.280.000 đồng.

Kể từ khi bà H có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh B và chị N chậm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền trên thì hàng tháng nếu anh B và chị N còn phải chịu thêm khoản tiền lãi suất chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch anh Nguyễn Thanh B và chị Lê Thị Tuyết N phải chịu 964.000 đồng. Bà Nguyễn Thị H không phải chịu án phí, đã qua bà hằng đã nộp 482.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005554 ngày 22/01/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, bà H được nhận lại.

Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh B phải chịu 300.000 đồng. Đã qua, ông B đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005942 ngày 14/10/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau được chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 331/2019/DS-PT ngày 17/12/2019 về tranh chấp hụi

Số hiệu:331/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về