Bản án 33/2018/DS-ST ngày 05/09/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 33/2018/DS-ST NGÀY 05/09/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT (RANH ĐẤT)

Trong ngày 05 tháng 09 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2018/TLST- DS, ngày 25 tháng 05 năm 2017. Về việc: “tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXXST - DS ngày 14 tháng 08 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1959 (có mặt) Bà Lê Thị Nh, sinh năm 1963 (có mặt) Cùng địa chỉ: tổ 02, ấp Tân Q , xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1949 Địa chỉ: tổ 03, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn Đ: Anh Trần Văn M, sinh năm 1971 (có mặt) Địa chỉ: tổ 03, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Trần Văn M, sinh năm 1971 (có mặt)

2/ Chị Đào Kim Tr, sinh năm 1974 (xin vắng mặt)

3/ Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1954 (xin vắng mặt)

Cùng địa chỉ: tổ 03, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

4/ Chị Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1982 (xin vắng mặt)

5/ Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1984 (xin vắng mặt)

6/ Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1987 (xin vắng mặt)

Cùng địa chỉ: tổ 02, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

7/ Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1965 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 03, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

8/ Qũy tín dụng nhân dân cơ sở Tân L (xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Tân L, xã Tân L, huyện B, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh trình bày:

Ông, bà đang sử dụng phần đất thuộc thửa số 236, tờ bản đồ số 04, diện tích 678,4m2 loại đất trồng cây lâu năm tọa lạc tại ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 18/10/2011. Thửa đất của chúng tôi có giáp với thửa đất 235, tờ bản đồ số 04, diện tích 760m2 do ông Trần Văn Đ đứng tên quyền sử dụng đất. Vào khoảng năm 2000 ông Đê có tiến hành cất căn nhà trên thửa đất 235. Tuy nhiên khi ông Đ xây nhà thì chúng tôi có thấy phần nhà mà ông Đ cất có lấn qua thửa 236 của chúng tôi, nên chúng tôi có nói với ông Đ là xem xét lại móc giới thì ông Đ nói là ông xây dựng nhà không có lấn qua thửa 236 của chúng tôi. Vào năm 2009 thực hiện chương trình Vlap tiến hành cấm trụ đá, chúng tôi biết ông Đ đã cất nhà lấn qua thửa 236 của chúng tôi chiều ngang khoảng 02m, chiều dài khoảng 12m. Tổng diện tích lấn chiếm khoảng 24m2. Khi xác định phần diện tích lấn chiếm thì chúng tôi có gặp ông Đ để trao đổi và thương lượng thì ông Đ có hứa sẽ di dời phần diện tích lấn chiếm trên, nhưng ông Đ cứ hẹn hoài mà không chịu di dời, hiện căn nhà cấp 4 do con ông Đ là ông Trần Văn M cùng vợ là bà Đào Kim Tr đang ở và quản lý sử dụng.

Nay chúng tôi yêu cầu ông Trần Văn Đ, ông Trần Văn M cùng vợ anh M là chị Tr phải di dời một phần căn nhà cấp 4 chiều ngang khoảng 02m, chiều dài khoảng 12m. Tổng diện tích khoảng 24m2 để trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho chúng tôi.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 02/04/2018 ông Trần Văn Đ trình bày:

Việc ông B kiện ông có biết, thửa 235 là đất của ông, nhà do vợ chồng ông cất, hiện ông cho con trai là Trần Văn M ở và sử dụng, khi hòa giải ở xã Tân B ông có hứa di dời. Nay ông thừa nhận có cất nhà lấn qua đất ông B, bà Nh khoản 12 đến 13m2 khi nào ông có tiền thì ông di dời nhà.

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn Đ có anh Trần Văn M trình bày:

Anh không thống nhất với lời trình bày của ông B và bà Nh, vì khi cha anh là ông Trần Văn Đ cất nhà trên phần đất của cha anh, chứ không có lấn qua phần đất thửa 236 của ông B và bà Nh. Nay anh không đồng ý trả lại phần diện tích như ông B, bà Nh yêu cầu. Trước đây anh có hứa đến năm 2020 anh sẽ di dời phần đất ông B, bà Nh yêu cầu, nhưng nay anh thấy việc cha ông cất nhà cấp 4 là không có lấn qua phần đất thửa 236. Nếu có lấn qua thì xin được bồi hoàn theo giá nhà nước.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 01/08/2018 bà Nguyễn Thị Q trình bày:

Bà là vợ ông Trần Văn Đ là mẹ ruột của Trần Văn M, việc ông B kiện tranh chấp ranh đất thì bà có biết, căn nhà của vợ chồng bà đã cho vợ chồng M ở và sử dụng, đất thì chưa có sang tên cho M, quyền sử dụng đất đang vay vốn tại quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Tân L số tiền là 100 triệu đồng, việc ông Đ ủy quyền cho con trai Trần Văn M được sự đồng ý của bà, bà yêu cầu Tòa giải quyết theo lời trình bày của con bà là Trần Văn M. Bà xin vắng mặt tại Tòa án vì bận làm ăn ít có ở nhà. Mọi tranh chấp để con trai bà Trần Văn M giải quyết với ông Nguyễn Văn B. Hiện nay vợ chồng bà có cất một căn nhà tường cấu tạo pê tông, cốt thép, ngang 7,5m, dài 15m cất cách nay khoảng 10 năm gía trị căn nhà 230 triệu đồng tọa lạc tại ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long.

Các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Kim D, Nguyễn Thị D, Nguyễn Thị Ngọc H là các thành viên trong hộ gia đình ông B và bà Nh, xin vắng không tham gia tố tụng tại Tòa, do ông B và bà Nh giải quyết tranh chấp với ông Đ.

Qũy tín dụng nhân dân cơ sở Tân L xin vắng mặt tại Tòa. Hiện ông Đ đã trả tiền vay vốn và nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xong.

Ông Nguyễn Văn S trình bày hiện ông không có tranh chấp và xin vắng mặt tại Tòa án.

Chị Đào Kim Tr xin vắng mặt và yêu cầu Tòa giải quyết như anh M trình bày.

Tại phiên tòa:

- Ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh trình bày:

Ông, bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ông Đ, anh M và chị Tr. Yêu cầu ông Đ và anh M tháo dở di dời nhà trả lại vợ chồng ông diện tích 22,4m2, không chấp nhận anh M bồi thường đất theo định giá là 4.480.000 đồng, vì hiện nay gia đình ông không có đất để ra riêng cho con.

- Anh Trần Văn M trình bày:

Theo Vlap gia đình anh cất nhà lấn qua đất ông B, bà Nh diện tích 22,4m2 là đúng, nhà cất lâu không di dời được, không có tiền di dời, yêu cầu được sử dụng và đồng ý bồi thường theo định giá là 4.480.000 đồng.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Tân:

Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng là đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự, gửi các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đúng quy định của pháp luật.

Từ khi thụ lý đến thời điểm hiện tại nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật theo Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm hiện tại bị đơn chưa tuân theo quy định như vắng mặt không lý do tại các buổi hòa giải ngày 26/06/2017, 10/10/2017, 06/03/2018 và ngày 10/04/2018.

Từ khi thụ lý đến thời điểm hiện tại người liên quan chưa thực hiện theo quy định của pháp luật theo Điều 70, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng Điều 100, 166, 203 Luật đất đai.

Áp dụng Điều 147, 165, 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và bà Nh, buộc ông Trần Văn Đ, anh Trần Văn M và chị Đào Kim Tr phải di dời nhà để trả lại phần đất có diện tích 22,4m2 cho ông B và bà Nh.

Về án phí: Miễn án phí cho ông Đ theo quy định, ngoài ra ông Đ phải chịu chi phí khảo sát, đo đạc, định giá.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B giải quyết việc ông Trần Văn Đ. Địa chỉ: tổ 03, ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long về việc tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất) theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Đây là vụ án Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ, có sự tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên, theo quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

Đất hộ gia đình ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh thuộc thửa 236, diện tích 678,4m2 đất ở và trồng cây lâu năm tọa lạc ấp Tân Q, xã Tân B, huyện B, tỉnh Vĩnh Long được Ủy ban nhân dân huyện Bình Tân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính thức vào ngày 18/10/2011, giáp đất ông Trần Văn Đ thửa 1507, diện tích 760m2 thổ quả, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính thức ngày 02/02/1991.

Hộ gia đình ông B khởi kiện ông Trần Văn Đ cùng con ông Đ là anh Trần Văn M và chị Đào Kim Tr có trách nhiệm tháo dỡ và di dời phần nhà của ông Đ cất lấn qua thửa 236 của gia đình ông B diện tích khoản 24m2 trả lại đất cho gia đình ông B sử dụng.

Căn cứ vào kết quả trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 19/01/2018.

Phần đất thửa 236 của hộ ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh có diện tích ngang trước giáp đường bê tông 12,56m, ngang sau giáp thửa 262 là 12,44m, dài giáp thửa 237 là 54,82m, dài giáp thửa 235 là 25,58m, dài giáp thửa 243 là 27,26m.

Trong đó phần tranh chấp ngang trước là 1,72m, ngay sau là 2,04m, dài giáp thửa 235 là 11,94m, dài giáp phần còn lại thửa 236 là 11,90m. Tổng diện tích là 22,4m2.

Thửa 1507, diện tích 760m2 đất thổ quả do ông Trần Văn Đ đứng tên quyền sử dụng đất. Theo chương trình đo VLap nay thuộc thửa 235 do ông Trần Văn Đ và bà Nguyễn Thị Q kê khai diện tích, ngang trước giáp đường bê tông 12,47m, ngang sau giáp thửa 243 là 13,34m, dài giáp thửa 236 là 22,58m, dài giáp thửa 250 là 27,37m. Tổng diện tích là 355m2.

Thuộc thửa 243, diện tích 362,2m2 do ông Nguyễn Văn S và bà Trần Thị Thanh V kê khai đăng ký hộ với diện tích ngang trước giáp thửa 235 là 13,34m, ngang sau giáp thửa 262 là 12,69m, dài giáp thửa 250 là 28,47m, dài giáp thửa 236 là 27,26m.

Căn cứ vào biên bản định giá ngày 24/7/2018 của Hội đồng định giá huyện Bình Tân, phần đất đang tranh chấp là 22,4m2 x 200.000đ/1m2 thành tiền 4.480.000đ, một phần nhà của ông Đ cất trên đất tranh chấp hết niên hạn sử dụng nên Hội đồng thống nhất không định giá.

Căn cứ vào biên bản hòa giải ngày 20/02/2014 của Hội đồng hòa giải xã Tân B, thì ông Đ thừa nhận cất nhà lấn qua đất ông B và hứa đến ngày 15/10/2014 sẽ tháo dỡ trả đất cho ông B sử dụng.

Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh kiện ông Trần Văn Đ và anh Trần Văn M có trách nhiệm tháo dỡ và di dời phần nhà cất lấn qua đất ông B, bà Nh tthuộc thửa 236 trả lại diện tích 22,4m2 cho ông, bà là có căn cứ đúng luật định được chấp nhận. Bởi vì, ông Trần Văn Đ thừa nhận cất nhà lấn qua đất ông B và bà Nh. Ông Đ có cam kết đến ngày 15/10/2014 tháo dỡ, di dời phần nhà cất qua đất ông B, bà Nh nhưng ông Đ vẫn không thực hiện và theo kết quả đo đạc thì quyền sử dụng đất của gia đình ông B, bà Nh giáp đất ông Đ có cấm trụ đá xác định ranh được các bên thừa nhận và đồng ý, và ranh hai bên thẳng. Phần đất tranh chấp nằm trong thửa 236 của ông B, bà Nh đúng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông B, bà Nh. Việc anh M là người đại diện theo ủy quyền của ông Đ cho rằng không lấn chiếm, nếu có thì bồi thường theo nhà nước quy định là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

Xét ông Trần Văn Đ là người cao tuổi, nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra ông Đ và vợ chồng anh M phải nộp các khoản chi phí khảo sát, đo đạc, định giá tài sản theo quy định của pháp luật.

Trả lại ông B, bà Nh số tiền tạm ứng án phí và các khoản tạm ứng khảo sát, định giá tài sản.

nhận.

[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật được chấp Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Đều 39; Điều 144, 147, 157, 165; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 99, 100, 166, 203 Luật đất đai năm 2013.

Căn cứ Điều 12, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh.

- Buộc ông Trần Văn Đ, anh Trần Văn M và chị Đào Kim Tr có trách nhiệm tháo dở và di dời phần nhà:

* Phần nhà bê tông:

Ngang trước 1,72m giáp phần còn lại thửa 236.

Ngang sau 1,75m giáp nhà tạm thửa 236. Dài 2,13m giáp phần còn lại thửa 236. Dài 2,11m giáp thửa 235.

* Phần nhà tạm:

Ngang trước 1,75m giáp phần nhà bê tông thửa 236.

Ngang sau 2,04m giáp phần còn lại thửa 236.

Dài 9,77m giáp phần còn lại thửa 236. Dài 9,83m giáp thửa 235.

Tổng diện tích chung bằng 22,4m2, trả lại diện tích đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn B và bà Lê Thị Nh quản lý, sử dụng (Kèm theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày 19/01/2018).

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Trả lại ông Nguyễn Văn B và Lê Thị Nh số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011761 ngày 25/5/2017 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Tân thu.

Miễn án phí cho ông Trần Văn Đ.

- Về chi phí khảo sát, đo đạc, định giá:

Buộc ông Trần Văn Đ, anh Trần Văn M và chị Đào Kim Tr có trách nhiệm liên đới nộp số tiền 3.423.000 đồng (ba triệu, bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng) số tiền trên trả lại cho ông Nguyễn Văn B nhận.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Án xử công khai có mặt nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại UBND xã phường nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/DS-ST ngày 05/09/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất (ranh đất)

Số hiệu:33/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về