Bản án 33/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 33/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2018, Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2018/HSST, ngày 06 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Hướng Phúc B, sinh ngày 18/01/1978; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ A, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hướng Phúc L và bà Lã Thị T (đã chết); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 28/8/2008 bị Tòa án nhân dân thị xã B (nay là TAND TP B) xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đến năm 2012 thì chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/9/2018 đến ngày 10/9/2018 thì được hủy bỏ quyết định tạm giữ và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hoàng Thu Chung là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bắc Kạn. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 07/9/2018, tại khu vực tổ A, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn, Công an thành phố Bắc Kạn bắt người phạm tội quả tang đối với Hướng Phúc B về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần bên trái đang mặc trên người 03 gói ma túy bên trong có chứa chất bột màu trắng lẫn màu hồng.

Hướng Phúc B khai nhận: Khoảng 17 giờ 50 phút, ngày 07/9/2018 B đi bộ từ nhà ra ngõ hóng gió thì bị Công an thành phố Bắc Kạn yêu cầu kiểm tra người, bản thân B đã tự giác giao nộp 03 gói hêrôin pha với hồng phiến tại túi quần bên trái đang mặc trên người của mình. Mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy trên người để sử dụng cho bản thân vì B là người nghiện ma túy.

Đến 19 giờ 00 phút cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hướng Phúc B tại tổ A, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn, thu giữ được 10 gói nhỏ ma túy bên trong có chứa chất bột màu trắng lẫn màu hồng; 06 viên thuốc tân dược màu hồng hình tròn.

Tại Cơ quan điều tra Hướng Phúc Bốn khai nhận nguồn gốc số ma túy như sau:

Ngày 02/9/2018, Hướng Phúc B một mình đi xuống bến xe khách tỉnh Thái Nguyên, mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân, tại đây B mua với một người đàn ông không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể 01 gói ma túy (hêrôin) giá 1.000.000 đồng và 08 viên ma túy tổng hợp (hồng phiến) giá 700.000 đồng. Sau khi mua được ma túy về đến nhà B lấy 02 viên ma túy tổng hợp (hồng phiến) nghiền ra để trộn lẫn với số ma túy (hêrôin) vừa mua được, sau đó chia ra thành nhiều gói nhỏ để tiện cho việc sử dụng. nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Kạn thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Ngày 08/9/2018 Cơ quan điều tra đã Trưng cầu giám định chất ma túy. Tại bản kết luận giám định số 94/PC54-MT ngày 12/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận:

- Các mẫu chất bột màu trắng lẫn màu hồng có ký hiệu A2; L1; L3; L7 gửi giám định là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, có khối lượng là 1.45 gam (Một phẩy bốn mươi năm gam).

- Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu L5 gửi giám định là ma túy, loại methamphetamine, có khối lượng là 0,580 gam (không phẩy năm mươi tám gam).

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Tại Cáo trạng số 30/CT-VKSTPBK ngày 05/11/2018 của VKSND thành phố Bắc Kạn truy tố bị cáo Hướng Phúc B về tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và tại bản luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể như sau:

*Tuyên bố bị cáo Hướng Phúc B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c, i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hướng Phúc B từ 12 (mười hai) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

*Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T94; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L2; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L4; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L6; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L8; 01 phong bì niêm phong ký hiệu A3.

*Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến; đề nghị xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất là 12 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng, mong Hội đồng xét xử xem xét xử với mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Kạn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên toà, bị cáo Hướng Phúc B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, như vậy đủ cơ sở kết luận: Ngày 07/9/2018, tại tổ A, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn, Hướng Phúc B đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 2,03 gam chất ma túy loại Heroine và Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân, chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

 [3] Hành vi nêu trên của Hướng Phúc B đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều luật có nội dung:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ... c) Hêrôin …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng...của các chất đó tương đương với khối lượng...chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Cáo trạng số 30/CT-VKSTP ngày 05/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, an ninh xã hội. Vì vậy, phải được xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

 [5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Về nhân thân: Năm 2008 bị Tòa án nhân dân thị xã B (nay là TAND TP B) xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, mà lại lao vào con đường nghiện chất ma tuý, nên khi xem xét lượng hình cần phải có một hình phạt thỏa đáng tương ứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo đã có thời gian bị tạm giữ từ ngày 07/9/2018 đến ngày 10/9/2018 nên được tính vào thời gian thụ hình cho bị cáo.

Trong vụ án này, B khai được mua ma túy với một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ ở bến xe khách tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, qua điều tra không xác định được danh tính, con người, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

 [6] Về vật chứng trong vụ án:

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu T94, bên ngoài phong bì có dòng chữ “Mẫu hoàn trả vụ Hướng Phúc B (1978)”, 02 chữ ký và 02 dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu L2 bên ngoài có dòng chữ “túi nilon và giấy lịch cũ lưu hồ sơ vụ án”, 02 dấu tròn của CQCSĐT và 04 chữ ký của những người tham gia niêm phong.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu L4 bên ngoài có dòng chữ “túi nilon và giấy một mặt có chữ viết, một mặt màu trắng cũ lưu hồ sơ vụ án”, 02 dấu tròn của CQCSĐT và 04 chữ ký của những người tham gia niêm phong.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu L6 bên ngoài có dòng chữ “túi nilon đựng xi lanh, bên trong có 01 gói nilon màu trắng lưu hồ sơ vụ án”, 02 dấu tròn của CQCSĐT và 04 chữ ký của những người tham gia niêm phong.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu L8 bên ngoài có dòng chữ “túi nilon và giấy lịch cũ lưu hồ sơ vụ án”, 02 dấu tròn của CQCSĐT và 04 chữ ký của những người tham gia niêm phong.

- 01 phong bì niêm phong ký hiệu A3 bên ngoài có dòng chữ “phong bì và giấy lịch cũ lưu hồ sơ vụ án”, 02 dấu tròn của CQCSĐT và 04 chữ ký của những người tham gia niêm phong.

Tất cả số vật chứng trên đều không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. [7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghiện chất ma túy, gia đình là hộ nghèo nên không áp dụng.

 [8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt và xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với đề nghị của Người bào chữa, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc đối với bị cáo.

 [9] Về án phí: Gia đình bị cáo là hộ nghèo và bị cáo có đơn xin miễn án phí nên không áp dụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hướng Phúc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

*Áp dụng: điểm c, i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: bị cáo Hướng Phúc B 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình (được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 07/9/2018 đến ngày 10/9/2018).

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu T94; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L2; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L4; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L6; 01 phong bì niêm phong ký hiệu L8; 01 phong bì niêm phong ký hiệu A3. (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/11/2018 giữa Công an thành phố Bắc Kạn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về