Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 64/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2019 về việc “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 135/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hữu Phà L, sinh năm 1984 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 7, xã Tân L, huyện TB, tỉnh C.

2. Bị đơn: Anh Thạch Quang H, sinh năm 1977 (có mặt). Địa chỉ: Số 161/18, Nguyễn TN, khóm B, phường 4, thành phố C, tỉnh M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Chị Hữu Phà L trình bày: Về hôn nhân chị và anhThạch Quang H sống chung vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện TB, tỉnh M. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2013 giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, anh H không chăm lo cho gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt về đánh chị. Nay chị xét thấy không thể chung sống với anh H, có hàn gắn sống cũng không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị L xác định có hai người con chung tên Thạch Hữu L, sinh ngày 21/9/2012 và Thạch Hữu T, sinh ngày 16/11/2016, hiện các con đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi cả hai người con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi mỗi người con 800.000 đồng/tháng (hai người con là 1.600.000 đồng) cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị L khai không có.

Về nợ chung: Chị L khai không có nợ ai và cũng không ai nợ lại anh, chị.

- Anh Thạch Quang H trình bày: Về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như chị L trình bày nhưng theo anh vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn dẫn đến phải ly hôn, hiện anh vẫn còn thương vợ và nếu anh có lỗi anh sẽ sửa chữa, anh mong muốn được hàn gắn về tiếp tục chung sống nên chị L xin ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Anh H xác định có 02 con chung tên Thạch Hữu L, sinh ngày 21/9/2012 và Thạch Hữu T, sinh ngày 16/11/2016. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh yêu cầu được nuôi cháu L giao cháu T cho chị L nuôi, không cấp dưỡng.

Trường hợp Tòa án giải quyết cho chị L nuôi cả hai người con do hoàn cảnh anh khó khăn, lương thấp và không đủ khả năng cấp dưỡng theo như yêu cầu của chị L nên anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 400.000 đồng/tháng (hai cháu là 800.000 đồng/tháng).

Về tài sản chung: Anh H khai có nhưng sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh H khai không có nợ ai và cũng không ai nợ lại anh, chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.

[2] Về hôn nhân: Chị L và anh H tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện TB, tỉnh M nên quan hệ hôn nhân của anh chị được pháp luật bảo vệ.

Qua trình bày của các đương sự thấy rằng: Chị L cho là mối quan hệ hôn nhân giữa chị và anh H thời gian đầu chung sống có hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nguyên nhân do anh H không chăm lo cho vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt về đánh đập chị, hiện nay mặc dù chị vẫn còn tình cảm với anh H nhưng đã qua nhiều lần hàn gắn anh H vẫn không thay đổi, chị nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Về phần anh H cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn lớn, anh vẫn còn thương vợ, trong cuộc sống vợ chồng anh có khuyết điểm anh sẽ khắc phục được, anh mong muốn được hàn gắn nên anh không đồng ý ly hôn theo như yêu cầu của chị L. Qua xem xét lời khai của các đương sự tại phiên tòa và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng quan hệ hôn nhân là sự tự nguyện từ hai phía, nên cần phải có sự xây dựng và hòa hợp của cả hai, nhưng hiện nay phía chị L đã cương quyết yêu cầu ly hôn mặc dù Hội đồng xét xử đã động viên để hàn gắn, chị cho rằng nếu Tòa án không chấp nhận cho ly hôn thì chị cũng không về chung sống với anh H. anh H mong muốn được hàn gắn nhưng xét thấy mối quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H đã qua nhiều lần hàn gắn vẫn không thể duy trì được và tại phiên tòa chị L vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn cho thấy mối quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H đã có sự rạn nứt, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận cho chị L ly hôn với anh H.

[3] Về con chung chị L và anh H xác định có 02 người con chung tên Thạch Hữu L, sinh ngày 21/9/2012 và Thạch Hữu T, sinh ngày 16/11/2016. Khi ly hôn, chị L, anh H không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng. Xét thấy việc nuôi dạy, cấp dưỡng nuôi con là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, việc giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dạy cần căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Tuy nhiên, không phải giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi thì người không trực tiếp nuôi con bị tước đi các quyền chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Hơn nữa, cháu L và T vẫn đang chung sống với chị L và hai cháu hiện còn bé nên cần sự chăm sóc của người mẹ, cho dù anh H có chịu khó chăm sóc cháu thì cũng không chu đáo bằng người mẹ. Để các cháu có sự phát triển tốt về thể chất, tinh thần vì việc anh, chị ly hôn đã phần nào xáo trộn tâm lý, cuộc sống bình thường của các con nên cần phải hạn chế đến mức thấp nhất việc ảnh H tâm lý, cuộc sống của các cháu. Do đó, giao cháu L và cháu T cho chị L tiếp tục nuôi là hợp lý. Mặc dù, giao con cho chị L nuôi nhưng nếu trong thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng chị L gặp khó khăn hoặc cản trở việc anh H thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đối với con thì anh H vẫn có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, sau khi vợ chồng ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa chị L yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi mỗi người con 800.000 đồng/tháng, hai người con là 1.600.000 đồng/tháng. Ý kiến của anh H trường hợp tòa án giải quyết cho chị L nuôi con thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi mỗi người con 400.000 đồng/tháng; hai người con là 800.000 đồng/tháng. Xét thấy mức cấp dưỡng của chị L là cao so với thu nhập của anh H và quy định của pháp luật, nhưng sự tự nguyện cấp dưỡng của anh H là thấp, không đủ để cùng chị L chăm lo cuộc sống cho các cháu. Để bảo đảm cuộc sống cho con sau khi cha mẹ ly hôn nên Hội đồng xét xử điều chỉnh mức cấp dưỡng lại cho phù hợp vì vậy cần buộc anh H cấp dưỡng nuôi mỗi người con 700.000 đồng/tháng, hai người con là 1.400.000 đồng/tháng. Về thời gian cấp dưỡng, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản chung: Chị L, anh H không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị L, anh H khai không có, không xem xét.

[6] Án phí hôn nhân gia đình chị L phải nộp theo quy định; án phí cấp dưỡng nuôi con anh H phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Hữu Phà La.

Về hôn nhân: Chị Hữu Phà L được ly hôn với anhThạch Quang H.

Về con chung: Cháu Thạch Hữu L, sinh ngày 21/9/2012 và Thạch Hữu T, sinh ngày 16/11/2016 hiện đang chung sống với chị La tiếp tục giao cho chị La chăm sóc, nuôi dạy. Anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng)/cháu/tháng, hai cháu là 1.400.000 đồng/tháng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) cho đến khi con đủ 18 tuổi, tự nuôi sống được. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Anh H không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị L có đơn yêu cầu thi hành án, anh H không tự nguyện thi hành khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì còn phải chịu khoản lãi phát sinh trên số tiền chậm cấp dưỡng theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành.

Về tài sản chung: Không xem xét.

Về nợ chung: Không có, không xem xét.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Chị L phải nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), vào ngày 21/01/2019, chị L đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số 0001977 được chuyển thu. Án phí cấp dưỡng nuôi con anh H phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chưa nộp.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về