Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 33/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 28/8/2019, tại Hội trường, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 112/2019/TLS-HNGĐ ngày 21/5/2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/7/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/8/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng N, sinh năm 1995

Địa chỉ cư trú: Thôn 1 T, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1994

Địa chỉ cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 21/5/2019, được bổ sung tại bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng N trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Trần Văn Đ kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 71, quyển số 01/2014 ngày 18/12/2014 của UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng nhau vào miền Nam làm ăn. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng 1 năm thì xảy ra mâu thuẩn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 02/2019 đến nay mà không ai quan tâm đến ai. Chị N thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Trần Văn Minh Q, sinh ngày 08/5/2017. Sau khi ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, chị N không yêu cầu anh Đ đóng góp tiền nuôi con vì chị có đủ khả năng và điều kiện nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị N khai không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải ngày 01/7/2019, bị đơn anh Trần Văn Đ trình bày: Quá trình kết hôn giống như chị N đã trình bày. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc, thỉnh thoảng có cãi nhau nhưng anh Đ thấy mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, anh không đồng ý ly hôn, mong muốn Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Trần Văn Minh Q, sinh ngày 08/5/2017. Nếu vợ chồng ly hôn anh Đ nhất trí giao con cho chị N chăm sóc nuôi dưỡng và anh không đóng góp tiền nuôi con vì chị N không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Các lần hòa giải tiếp theo anh Trần Văn Đ vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt Thông báo về phiên hòa giải hợp lệ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng anh Trần Văn Đ vắng mặt tại phiên toà lần thứ nhất ngày 12/8/2019 và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử đã ra quyết định hoãn phiên toà. Tại phiên toà lần thứ hai, bị đơn anh Trần Văn Đ vẫn vắng mặt mặc dù Toà án đã tống đạt quyết định hoãn phiên toà hợp lệ. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Trần Văn Đạt.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng N và anh Trần Văn Đ kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị đã có thời gian hạnh phúc bên nhau; lẽ ra anh, chị phải tiếp tục thương yêu, quý trọng chăm sóc lẫn nhau nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, hai bên thiếu sự thông cảm, chia sẽ trong cuộc sống vợ chồng và thiếu quan tâm lẫn nhau. Chị N thì cho rằng anh Đ quá vô tâm, chưa làm tròn trách nhiệm của người chồng, người cha. Anh Đ thì trình bày mâu thuẩn vợ chồng chưa đến mức độ trầm trọng và mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Theo nguyện vọng của anh Đ, Tòa án đã tổ chức nhiều phiên hòa giải nhưng anh Đ chỉ đến tham gia một lần, các lần còn lại anh Đ vắng mặt không có lý do chứng tỏ anh không còn quan tâm, bảo vệ hạnh phúc gia đình riêng của mình. Xét mục đích hôn nhân của chị N không đạt được, tình cảm vợ chồng giữa chị Trần Thị Hồng N và anh Trần Văn Đ không còn, Hội đồng xét xử nhất trí cho chị Trần Thị Hồng N được ly hôn anh Trần Văn Đ là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Giao con chung Trần Văn Minh Q, sinh ngày 08/5/2017 cho chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; anh Đ không phải đóng góp tiền nuôi con do chị N không yêu cầu vì chị có đủ khả năng và điều kiện nuôi con là phù hợp với ý chí, nguyện vọng của chị N, anh Đ và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N, anh Đ khai không có nợ chung, không có tài sản chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Hồng N phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị Hồng N được ly hôn anh Trần Văn Đ.

2/ Về quan hệ con cái: Giao chị Trần Thị Hồng N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Văn Minh Q, sinh ngày 08/5/2017; anh Trần Văn Đ không phải đóng góp tiền nuôi con do chị N không yêu cầu vì chị có đủ khả năng và điều kiện nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí ly hôn: Buộc chị Trần Thị Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0005750 ngày 21 tháng 5 năm 2019. Chị N đã nộp đủ án phí.

4/ Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Hồng N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/8/2019); anh Trần Văn Đ vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết tại nơi cư trú và trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi cư trú để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HNGĐ-ST ngày 28/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:33/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về