Bản án 33/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2019/HSST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Hôm nay ngày 25 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2019/HSST ngày 05/4/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HS ngày 11/4/2019 đối với:

Bị cáo: Trần L (tên gọi khác: không), sinh ngày 19/9/1991, tại B, L. Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 3, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Sửa chữa xe máy; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bị cáo con ông Trần Trọng B, sinh năm 1950 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1963; có vợ là Lù Thị H (đã ly hôn); chưa có con; tiền án: tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2012 bị kết án 5 năm tù về tội cố ý gây thương tích (đã được xóa án tích); Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 21/12/2018 đến nay, bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/12/2018, Trần L đón xe ô tô khách từ nhà ở tiểu khu 3, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Sơn La đến khu vực chợ thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, L gặp và hỏi mua được của 01 người nữ giới (L không biết họ tên, địa chỉ cụ thể ở đâu) 11 viên Hồng phiến, được gói trong 01 mảnh giấy bạc với giá 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng). Sau đó, L cất gói ma túy vừa mua được vào trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc rồi đón xe ô tô buýt về thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Khi đến khu vực tổ 03, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, L xuống xe, đi bộ tìm nơi để sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy, Công an thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 04 gói giấy bạc, bên trong chứa 11 viên nén đồng dạng hình tròn màu hồng (L tự giác lấy từ túi quần phía trước, bên phải đang mặc ra giao nộp và khai nhận là Hồng phiến) 01 giấy Chứng minh nhân dân số 050811202 mang tên Trần L, do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 01/06/2016.

Ngày 21/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng,thu giữ của Trần L. Kết quả cân tịnh, xác định: 11 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng trong 01 gói giấy bạc có tổng khối lượng là 1,09 gam. Lấy 0,3 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu L2. Còn lại 0,79 gam lưu kho vật chứng, ký hiệu L1”.

Ngày 26/12/2018, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số 137/2018/KLMT. Kết luận: Mẫu giám định ký hiệu L2 là ma túy; loại chất Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,3 gam. Tổng khối lượng chất ma tủy thu giữ được là 1,09 gam, loại chất Methamphetamine".

Tại bản cáo trạng số: 21/CT-VKSTP ngày 05/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Trần L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Trần L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Xử phạt bị cáo Trần L 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, giữ: 21/12/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần L.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,79 gam methamphetamine cùng vỏ bao vật chứng ban đầu đã niêm phong;

Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh thư nhân dân số 050811202 do công an tỉnh Sơn la cấp ngày 01/6/2016 mang tên Trần L.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa: Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả cân tịnh vật chứng, kết luận giám định; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát; nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần L đều có lời khai nhận tội thống nhất, với nội dung đã cất giữ 11 viên Hồng phiến với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 15 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 12 năm 2018, tại khu vực khu vực tổ 03, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Trần L. Cùng vật chứng thu giữ là 1,09 gam viên nén kết luận giám định là Methamphetamine. Đồng thời phù hợp với lời khai của Vũ Bá C người đã chứng kiến Cơ quan điều tra bắt quả tang đối với Trần L.

[3] Với các căn cứ chứng minh trên đã có đủ cơ sở kết luận,ngày 21/12/ 2018 bị cáo Trần L đã có hành vi cất giữ trái phép 1,09 gam ma túy, là chất Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Khi thực hiện hành vi tàng trữ phép chất ma túy bị cáo đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c,… Methamphetamine…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam ”. Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên về nhân thân, năm 2012 đã bị kết án về tội Cố ý gây thương tích (đã được xóa án tích). Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối hận. Bố bị cáo là Trần Trọng B có cống hiến trong Quân đội (có xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn Yên Châu, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La). Do đó bị cáo Trần L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử  cần thiết xử phạt bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đảm bảo biện pháp cải tạo, giáo dục riêng, phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp, không có tài sản có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 0,79 gam Methamphetamine còn lại sau giám định là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành cùng vỏ bao vật chứng + phong bì niêm phong ban đầu, đã niêm phong đúng quy định của pháp luật, cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 (Một) chứng minh nhân dân mang tên Trần L, là giấy tờ tùy thân của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo Trần L.

[9] Liên quan trong vụ án này: Có người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng bị cáo không quen biết người này. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, do đó Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[9] Về án phí: Bị cáo  phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáoTrần L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Trần L 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, giữ: 21/12/2018.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần L.

2. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng lưu kho vụ Trần L - SN 1991. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 21/12/2018. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc; mẫu lưu kho ký hiêu L1 = 0,79 gam”, mặt sau phong bì trên dán giấyniêm phong có 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La và 06 chữ ký, 06 dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong.

Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh thư nhân dân số 050811202 do công an tỉnh Sơn la cấp ngày 01/6/2016 mang tên Trần L.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/04/2019 giữa Cơ quan Công an thành phố Sơn La và Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần L phải nộp 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Kháng cáo: Bị cáo Trần L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 25/4/2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 33/2019/HSST ngày 25/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:33/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về