Bản án 333/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 333/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 304/2018/TLST - HS, ngày 31 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 301/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

1.Họ và tên: Nguyễn Việt C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 05 tháng 6 năm 1986; Tại: Thành phố Hải Phòng;

Hộ khẩu thường trú: 02/40 đường L, phường L, Quận N, thành phố Hải Phòng;

Tạm trú: 08 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:

Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Tiền án; tiền sự: Không;

Con ông: Nguyễn Việt H, sinh năm: 1957; Con bà: Nguyễn Thị M, sinhnăm: 1962; Bị cáo chưa có vợ con.

 Ngày 30/7/2018, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo hiện đang tại ngoại - Có mặt.

- Người bị hại: Bà Lê Thị Ánh H – Sinh năm: 1959

Cư trú tại: 443/11 đường Q, phương T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

- Ngươi làm chứng:

1. Anh Y J - Sinh năm: 1992

Cư trú tại: Buôn T, xã E, thành phô B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Anh Văn Đức S- Sinh năm: 1994

Cư tru tai: 08 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

3. Anh Lê Văn A- Sinh năm: 1993

Cư trú tai: 08 đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt)

4. Anh Hoàng Văn P - Sinh năm: 1992

Cư tru tai: Thôn 9b, xã C, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 11/7/2018, Nguyễn Việt C, anh Lê Văn A và anh Văn Đức S đang ngủ trong Công ty TNHH C, địa chỉ: 08 đường P, phường T, thành phố B, do anh Nguyễn Mạnh T làm giám đốc thì nghe có tiếng người to tiếng bên ngoài, anh H mở cửa Công ty thì thấy bà Lê Thị Ánh H và anh Y J đang đứng ngoài cửa Công ty. Bà H đòi số tiền 4.000.000 đồng nhưng anh A nói không biết nên không đưa tiền và đuổi bà H đi về. Do bực tức với thái độ của anh A nên bà H đứng trước cửa Công ty chửi liên tục “lũ chó, bọn mất dạy, lũ lừa đảo”, anh A và C đuổi bà H về nhưng bà H không về mà vẫn đứng chửi nhau với anh A và C. Lúc này có anh Hoàng Văn P (là bạn của C) đến Công ty để rủ C đi ăn sáng, uống cà phê. P ngồi trên xe mô tô đứng trước Công ty nghe thấy bà H chửi những người trong Công ty với nhiều câu xúc phạm. Khoảng 20 phút sau, C đội mũ bảo hiểm màu đỏ bằng nhựa cứng, đi ra để đi ăn sáng với P. Khi C đi ngang qua bà H, ngồi lên xe của P chuẩn bị đi thì giữa C với bà H có to tiếng với nhau và bà H cúi người nhặt một cục đá cầm trên tay. C bực tức xuống xe mô tô xông đến dùng tay trái kẹp cổ, còn tay phải đấm liên tiếp trúng vào vùng gò má trái và xung quanh mắt trái của bà H, rồi C xô đẩy vật bà H ngã xuống đường. Bà H vùng đứng dậy được thì C liền tháo mũ bảo hiểm màu đỏ, bằng nhựa đội trên đầu, dùng tay phải cầm mũ bảo hiểm đập liên tiếp từ trên xuống, trúng vào vùng chẩm sau đầu của bà H, gây thương tích cho bà H. Khi C đánh bà H thì mũ bảo hiểm cầm trên tay bị văng ra ngoài đường, còn tấm mút mềm, màu đen lót bên trong thì C giữ lại được, sau đó C và P bỏ đi ăn sáng. Sau khi bị C đánh gây thương tích, bà H đã viết đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số: 845/PY-TgT của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Bà Lê Thị Ánh H bị đa thương, gãy xương cung tiếp trái tỷ lệ 10%; vết thương vùng chẩm 02%, tổng tỷ lệ thương tích là 12%, vật tác động cứng, tày.

Ngày 05/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung thương tích của bà Lê Thị Ánh H. Tại bản kết luận pháp y bổ sung số: 1036/PY-TgT của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Bà Lê Thị Ánh H bị gãy xương cung tiếp trái10%, vết thương chẩm, chấn động não 05%; tổng tỷ lệ thương tích là 15%, vật tác động cứng, tày.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên, bị cáo đồng ý với kết luận giám định và không có ý kiến gì.

Bản cáo trạng số: 314/CT-VKSTP.BMT ngày 31/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột , tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Nguyễn Việt C về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Việt C và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản cáo trạng số 314/CT- VKSTP.BMT ngày 31/10/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2 Điều 65 Bộ luật hình sự năm, xử phạt bị cáo Nguyễn Việt C từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 – 05 năm.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điêu 46, Điều 47 Bộ luật hình sự ; Điều 585; Điều 590 Bộ luât dân sự:

Ngày 14/10/2018 Nguyễn Việt C đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho bà Lê Thị Ánh H, toàn bộ tiền điều trị, thuốc men và các khoản chi phí khác, với số tiền là 75.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, bà H tự nguyện viết đơn bãi nại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Nguyễn Việt C, cam kết không yêu cầu bồi thường gì thêm và không khiếu kiện gì về sau.

Đối với phần nhựa cứng của mũ bảo hiểm màu đỏ, Cơ quan điều tra tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được nên không đề cập xử lý .

Đối với tấm lót bằng mút màu đen bên trong mũ bảo hiểm, đường kính 20 cm, là công cụ bị cáo Nguyễn Việt C dùng phạm tội, không có giá trị sử dụng. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với anh Lê Văn A, anh Lê Đức S và anh Hoàng Văn P, là người quen của bị cáo Nguyễn Việt C, không liên quan đến hành vi gây thương tích đối với bà Lê Thị Ánh H. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý.

Đối với 01 đĩa DVD Cơ quan điều tra thu giữ, thể hiện hình ảnh bị cáo Nguyễn Việt C gây thương tích cho bà Lê Thị Ánh H. Do vậy cần lưu giữ theo hồ sơ vụ án để phục vụ công tác xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng

và phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 9 giờ, ngày 11/7/2018 tại địa chỉ: 08 đường P, phường T, thành phố B, Nguyễn Việt C đã dùng tay và mũ bảo hiểm màu đỏ, bằng nhựa cứng đánh liên tiếp nhiều phát trúng vào vùng gò má trái, xung quanh mắt trái và vùng chẩm sau đầu của bà H, gây thương tích tỷ lệ là 15% (Mười lăm phần trăm). Bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm (mũ bảo hiểm) thực hiện hành vi phạm tội được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự là một trong những tình tiết định khung hình phạt, làm tổn hại 15% sức khỏe cho bà Lê Thị Ánh H, bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội: “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 (điểm a khoản 1) Điều 134 Bô luât hình sự.

Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm …;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”.

[2] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nguy hiểm và gây tác hại xấu nhiều mặt cho xã hội. Hành vi của bị cáo đã cố ý gây thương tích cho bị hại thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác. Do vậy, đối với bị cáo cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân lương thiện.

Tuy nhiên, Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo phạm tội với nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt, ngoài ra bị phạm tội một phần do lỗi của bị hại, bị cáo có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng nên cần áp dụng thêm khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục và răn đe, phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận và bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 75.000.000đồng, bị hại đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì thêm là hoàn toàn tự nguyện cần chấp nhận

[4] Về vật chứng: Đối với tấm lót bằng mút màu đen bên trong mũ bảo hiểm, đường kính 20 cm, là công cụ bị cáo Nguyễn Việt C dùng phạm tội, không có giá trị sử dụng. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[5] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, tiến hành truy tìm, thu thập vật chứng, cũng như lấy lời khai của bị cáo, bị hại và những người khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Việt C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Việt C 02 (hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Việt C cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục bị cáo, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ Luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584; Điều 585; Điều 590, Bô luât dân sư.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị cáo Nguyễn Việt C đã bồi thường cho bị hại bà Lê Thị Ánh H số tiền 75.000.000 đồng; Bà H đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản nào khác.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tấm lót bằng mút màu đen bên trong mũ bảo hiểm, đường kính 20 cm.

(Vật chứng có đặc điểm, số lượng như biên giao nhận vật chứng ngày 16/11/2018 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

* Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Việt C phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 333/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:333/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về