Bản án 34/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai, xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 32/2017/HSST, ngày 10 tháng 7 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đậu Minh M, sinh năm 1991

Nơi ĐKNKTT và Chỗ ở: Xóm X, xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Trình độ văn hóa: 9/12.

Con ông: Đậu Minh N, sinh năm 1966.

Con bà: Nguyễn Thị K, sinh năm 1965.

Anh chị em ruột: có 03 người, bị cáo là con thứ hai.

Vợ: Hồ Thị H, sinh năm 1994.

Con: Có 01 con, sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ xử phạt 13 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 25 tháng 12 ngày về tội “trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 4/6/2017 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đậu Minh N, sinh năm 1993.

Trú tại: Xóm X, xã QT, thị xã H, tỉnh Nghệ An, vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đậu Minh M bị Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H truy tố về hành vi phạm tội, như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 04 tháng 6 năm 2017, tại khu vực khối 20, phường M, thị xã H; Tổ công tác của Công an thị xã H phát hiện, lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang đối với Đậu Minh M thu giữ của M 01 gói nhỏ được bọc bằng vỏ bao photylen màu trắng xanh, bên trong có chất bột màu trắng dạng nén; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại WAVE α biển kiểm soát 37L1-534.59; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 1200 và đưa M về trụ sở để làm việc. Quá trình điều tra M khai nhận như sau:

Vào khoảng 16 giờ, ngày 04 tháng 6 năm 2017, Đậu Minh M đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một người đàn ông tên T gọi điện bảo M đến khối 20, phường M chở T về nhà, M mượn xe mô tô của em trai là Đậu Minh N đi đến gần chợ M thì gặp T đi cùng một nam thanh niên, lúc gặp T nói “Mi coi tìm ít hàng về chơi”, sau đó T nói với người bạn đi cùng T đưa cho M số tiền 500.000đ để M đi mua ma túy đồng thời đưa số điện thoại của một người đàn ông tên L cho M, M gọi điện thoại cho L hỏi: “Anh L à, có hàng không để cho em năm trăm”, L nói “Có, chạy qua cây Vông đi”, M đi xe mô tô đến chợ cây Vông thuộc xóm 18, xã QV gặp L, M đưa số tiền 500.000đ cho L để mua ma túy, L cầm tiền lên xe mô tô của M điều khiển chở M đi về khối B, phường QT thì M xuống xe đứng bên lề đường chờ, L điều khiển xe mô tô đi về hướng phường QP để mua ma túy, khoảng 30 phút sau L quay lại đón M rồi cả hai cùng đi đến tiệm thuốc tây gần đó để mua xilanh và nước cất, L và M tiếp tục đi đến phía sau khách sạn Mường Thanh H; M lấy một ít ma túy vừa mua được đưa ra, L cùng M sử dụng bằng hình thức tiêm chích, sử dụng xong M chở L đến xã QV để L về nhà, còn M điều khiển xe mô tô đi chở T. Khi M đi đến ngã ba thuộc khối 20, phường M thì bị Tổ công tác Công an thị xã H kiểm tra phát hiện bắt giữ, còn T bỏ chạy.

Tại bản kết luận giám định số 612/KL-PC54(MT) ngày 05/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Chất bột màu trắng ghi thu của Đậu Minh M gửi tới giám định là Hêrôin, có trọng lượng 0,15g.

Tại bản cáo trạng số 37/VKS-HS, ngày 7 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H đã truy tố bị cáo Đậu Minh M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đậu Minh M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội và khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Đậu Minh M từ 15 - 18 tháng tù;

Về hình phạt bổ sung: Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên miễn phạt tiền bổ sung.

Vật chứng vụ án: Tiêu hủy số ma túy còn lại đã niêm phong; Trả lại 01 điện thoại Nokia 1200 và sim số 01699108590 cho M.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đậu Minh M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Đậu Minh M phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án; Có đủ cơ sở kết luận ngày 4/6/2017, Đậu Minh M tàng trữ trái phép chất Hêrôin có trọng lượng 0,15g.

Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được Hêrôin là chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ trái phép nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên có đủ căn cứ kết luận Đậu Minh M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS như cáo trạng quy kết là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước; Là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác và làm lây truyền các bệnh nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án. Bởi vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân về tội chiếm đoạt tài sản, cần thiết phải xử phạt nghiêm khắc bằng hình phạt tù, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Ngoài ra, thực hiện hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Do khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 1 năm đến 5 năm tù nên xử bị cáo mức hình phạt tù của điều luật mới theo hướng có lợi cho bị cáo.

Do đó, cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần song cần thiết phải cách ly khỏi xã hội một thời gian như Viện kiểm sát đề nghị mới đủ điều kiện giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Theo lời khai của M có người đàn ông tên T và L liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra xác minh có Ngô Minh T và Nguyễn Tuấn L nhưng hiện nay T và L đều không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với nam thanh niên bạn của T theo lời khai của M đưa tiền cho M đi mua ma túy do không biết họ tên địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra làm rõ, Cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Chiếc xe mô tô Honda biển kiểm soát 37L1 - 534.59, quá trình điều tra chiếc xe thuộc sở hữu của anh Đậu Minh N, khi M mượn xe anh N không biết M dùng vào việc phạm tội, nên Cơ quan CSĐT trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

Vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng ma túy là tang vật phạm tội, không có giá trị sử dụng. 01 điện thoại di động, quá trình điều tra không xác định được T nên không chứng minh được M dùng làm phương tiện phạm tội, nên trả lại cho M.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đậu Minh M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đậu Minh M 15 (Mười lăm) tháng tù; Thời hạn tù được tính từ ngày 4/6/2017.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại là 0,09g đã niêm phong; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia 1200 và sim số 01699108590; (Ma túy, sim và điện thoại có số lượng, đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 7/7/2017 giữa Cơ quan điều tra Công an thị xã H và Chi cục thi hành án Dân sự thị xã H).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Đậu Minh M phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về