Bản án 34/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 30/06/2017 VỀ CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST ngày 08/6/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân H, sinh năm 1991 tại Thanh O - Hà Nội; trú tại: Thôn ĐG, xã ĐĐ, huyện T O, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm ruộng; con ông Nguyễn Xuân Đoàn và bà Quách Thị Hạnh; vợ, con: Chưa; tiền án: Ngày 29/3/2013 bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội tuyên phạt 38 tháng tù về tội cướp giật tài sản; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/4/2017 đến nay. Có mặt.

- Người bị hại: Chị Hồ Thị N sinh năm 1963. Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn V X Th, xã MTh, huyện MĐ, Thành phố Hà Nội.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Nguyễn Xuân O sinh năm 1988. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Văn H sinh năm 1981. Vắng mặt.

Đều cư trú: Thôn ĐG, xã ĐĐ, huyện T O, Thành phố Hà Nội.

+ Anh Phạm Đình T sinh năm 1964. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn B N, xã Th V, huyện TO, Thành phố Hà Nội.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Xuân H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 23/4/2017, Nguyễn Xuân Hòa mượn xe mô tô biển kiểm soát 33P9-6590 của anh trai là Nguyễn Xuân O sinh năm 1991 trú tại Thôn ĐG, xã ĐĐ, huyện T O để đi mua điện thoại nhưng vì thiếu tiền nên Hòa đã nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản. Hòa điều khiển xe mô tô đi từ Thanh O đến Mỹ Đức theo đường tỉnh lộ 419 hướng Phúc Lâm xuống Đại Nghĩa. Khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày khi đến địa phận thôn Vĩnh Xương Thượng, xã Mỹ Thành phát hiện thấy chị Hồ Thị N, sinh năm 1963, trú tại thôn Vĩnh Xương Thượng, xã Mỹ Thành đi xe đạp điện cùng chiều trên cổ đeo 01 sợi dây chuyền vàng, Hòa đã phóng xe máy nhanh chóng áp sát vào xe đạp điện của chị N, dùng tay trái giật sợi dây chuyền vàng rồi bỏ chạy nhưng bị truy đuổi và bắt giữ. Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 33P9-6590 màu đỏ đen, nhãn hiệu Yamaha số máy 008936, số khung 008936; 01 dây chuyền kim loại màu vàng bị giật đứt hai đoạn và có mặt hình trái tim; 01 điện thoại Nokia 1110i màu tím trắng; 01 chứng minh thư nhân dân 017277844 mang tên Nguyễn Xuân H; 01 chøng minh thư nhân dân số 112017077 mang tên Nguyễn Xuân Đ.

Tại kết luận định giá tài sản số 27 ngày 28/4/2017, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Đức đã xác định: 01 sợi dây chuyền kim loại màu vàng đã bị đứt làm hai đoạn và có mặt hình trái tim tổng trọng lượng là 1,23 chỉ, loại vàng 10k, giá trị tại thời điểm là 1.722.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã trả lại chị N sợi dây chuyền vàng đó và chị N không có yêu cầu gì về dân sự.

Bản cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 07/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về “Tội cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 02 Điều 136 Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 02 Điều 136; điểm p khoản 01, khoản 02 Điều 46; điểm g khoản 01 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt:

Nguyễn Xuân H từ 05 đến 06 năm tù về tội cướp giật tài sản.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về bồi thường dân sự: Xét thấy bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, biên bản định giá và các tài liệu chứng cứ khác. Hội đồng xét xử có cơ sở vững chắc kết luận:

Khoảng 13 giờ 45 phót ngày 23/4/2017, tại khu vực thôn Vĩnh Xương Thượng, xã Mỹ Thành, Nguyễn Xuân H đã có hành vi cướp giật 01 sợi dây chuyền vµng của chị Hồ Thị N trị giá 1.722.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội cướp giật tài sản theo Điều 136 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng gây nguy hiểm cao cho xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản rất táo bạo, sử dụng xe mô tô là phương tiện nguy hiểm đi trên đường, khi thấy sơ hở thì phóng nhanh áp sát xe đạp điện do chị Hồ Thị N đang điều khiển theo hướng cùng chiều, bất ngờ dùng tay trái giật sợi dây chuyền vàng chị N đang đeo trên cổ rồi nhanh chóng tẩu thoát. Đây là hành vi rất nguy hiểm, dễ làm bị hại và người đi đường ngã, gây nguy hiểm cho tính mạng của họ. Hành vi của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” nên phải bị xét xử ở điểm d khoản 02 Điều 136 của Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Xuân H ngày 29/3/2013 bị Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội xử phạt 38 tháng tù về tội cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện cướp giật tài sản. Vì thế, bị cáo bị áp dụng thêm tình tiết “Tái phạm” để tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 01 Điều 48 của Bộ luật Hình sự.

Song cũng xét, sau khi bị bắt và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chủ động ra đầu thú đồng thời người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 01, khoản 02 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo và để phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương nên cần xử bị cáo nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 33P9- 6590 nhãn hiệu Yamaha, số máy 008936, số khung 008936, màu đỏ đen, dung tích xilanh dưới 50cm3: Tuy đứng tên chủ xe là anh Phạm Đình T, sinh năm 1964 trú tại thôn Bạch Não, xã Thanh Văn, huyện Thanh O nhưng năm 2009, anh T đã bán lại cho một người không quen biết, sau đó anh Nguyễn Xuân O (anh bị cáo) mua lại được từ anh Nguyễn Văn H sinh năm 1988 cùng địa phương. Xe không nằm trong dữ liệu vật chứng và do anh O là chủ sở hữu không có lỗi liên quan đến việc điều khiển xe của bị cáo nên cần trả lại xe mô tô nói trên cho anh O là phù hợp với quy định của pháp luật.

- 01 điện thoại Nokia 1110i màu tím trắng: Xét thấy đây là tài sản thuộc sở hữu của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 chứng minh thư nhân dân số 017277844 mang tên Nguyenx Xuân H và 01 chứng minh thư nhân dân số 112017077 mang tên Nguyễn Xuân Đ: Xét thấy đây là những giấy tờ không liên quan đến thực hiện tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

Về bồi thường dân sự: Xác nhận bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng: Điểm d khoản 02 Điều 136; điểm p khoản 01, khoản 02 Điều 46; điểm g khoản 01 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt:

Nguyễn Xuân H 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 23/4/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Trả lại 01 xe mô tô biển kiểm soát 33P9- 6590 nhãn hiệu Yamahaxe , số máy 008936, số khung 008936, màu đỏ đen, dung tích xilanh dưới 50cm3 cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Xuân O (Tình trạng xe có đặc điểm như biên bản giao nhận giữa Công an huyện Mỹ Đức với Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức).

Trả lại bị cáo Nguyễn Xuân H: 01 điện thoại Nokia 1110i màu tím trắng; 01 chứng minh thư nhân dân số 017277844 Mang tên Nguyễn Xuân H và 1 chứng minh nhân dân số 112017077 mang tên Nguyễn Xuân Đ (Tình trạng có đặc điểm như biên bản giao nhận giữa Công an huyện Mỹ Đức với Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 231 và 234 Bộ luật Tố tụng hình Sự: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 Ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo, bị hại; kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về