Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 78/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2018 về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXX-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T – Sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ 3, thị trấn N, huyện N, tỉnh N.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T – Sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện N, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29 tháng 5 năm 2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Phạm Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 01/3/2012 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, luôn bất đồng quan điểm sống, anh T mải chơi cờ bạc, vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Đến cuối năm 2017 chị đưa các con về nhà bố mẹ đẻ ở, cũng từ đó vợ chồng chị sống ly thân, không quan tâm gì với nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là cháu Phạm Vũ Ngọc L, sinh ngày 19/4/2014 và cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 09/9/2017, hiên nay cả hai cháu đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 cháu, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung;

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh T không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 26/7/2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án bị đơn anh Phạm Văn T trình bầy: Anh nhất trí với lời trình bầy của chị T về thời gian kết hôn, quá trình chung sống và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn. Anh và chị T sống ly thân từ cuối năm 2017 không còn quan tâm gì với nhau nữa, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được. Nay chị T làm đơn xin ly hôn, anh cũng nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị T được ly hôn.

Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung như chị T trình bầy là đúng, khi ly hôn anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Vũ Ngọc L, giao chị T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Thanh T. Anh và chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau;

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh và chị T không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Tại phiên tòa: Chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và quan điểm đã trình bầy và đề nghị tại Tòa án. Anh T cũng giữ nguyên quan điểm và đề nghị nên trên

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T kết hôn do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chung sống thời gian đầu hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, cuối năm 2017 vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì với nhau nữa. Nay cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ. Chị T làm đơn xin ly hôn anh T cũng đồng ý ly hôn với chị T, nên cần chấp nhận sự tự nguyện ly hôn của chị T và anh T

 [2]. Về con chung: Chị T và anh T có 02 con chung hiện các cháu đang ở với chị T. Sau khi ly hôn, xét nguyện vọng, điều kiện thực tế của các bên, đảm bảo quyền lợi của con chung; Căn cứ Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân gia đình: Giao con chung là cháu Phạm Vũ Ngọc L cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Phạm Thanh T cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T và chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị T phải có trách nhiệm giao cháu Phạm Vũ Ngọc L cho anh T nuôi dưỡng.

Chị T và anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở,

 [3]. Về tài sản chung và công nợ chung: Các đương sự không đề nghị giải quyết, nên Tòa án không đặt ra xem xét.

 [4]. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,

1. Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Phạm Văn T;

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 09/9/2017 cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Phạm Vũ Ngọc L, sinh ngày 19/4/2014 cho anh Phạm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị T phải có trách nhiệm giao cháu Phạm Vũ Ngọc L cho anh T nuôi dưỡng

Chị T và anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở,

3. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị T đã nộp theo Biên lai số 0002020 ngày 07 tháng 6 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Trực (chị T đã nộp đủ án phí).

4. Chị T và anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì đương sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về ly hôn

Số hiệu:34/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về