Bản án 34/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 34/2018/HSST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 34/2018/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mai Thành Đ - sinh năm 1998. Trú tại: xóm Vĩnh An, xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hoá. Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Con ông Mai Văn S và bà Đinh Thị Th. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2018 đến nay(có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Vũ Văn V – sinh năm 1991(vắng mặt).

Trú tại: xóm Vĩnh An, xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

* Người làm chứng:

- Anh Phạm Văn S – sinh năm 1992(vắng mặt)

Trú tại: xóm 1, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hoá.

- Anh Nguyễn Tiến Th – sinh năm 1995(vắng mặt)

Trú tại: xóm 6, xã Th, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Mai Hữu H – sinh năm 1965(vắng mặt)

Trú tại: xóm 4, xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hoá.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Thành Đ là người thường sử dụng chất ma túy, khoảng 11 giờ ngày 08/6/2018, khi Đ đang ở nhà thì có điện thoại của Nguyễn Tiến Th ở xã Th, huyện N gọi đến hỏi mua ma túy, Đ đồng ý bán lại ma túy cho Th và hẹn đến khu vực xóm 4, xã Nga Văn để giao nhận ma túy. Sau đó, Đ sang nhà anh Vũ Văn V cùng xóm để mượn xe mô tô đi gặp Th, anh V cho Đ mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER biển kiểm soát 14K2 – 5186 nhưng không biết Đ dùng để đi đâu, làm gì. Đ đi xe mô tô đến địa điểm đã hẹn thì gặp Th đi cùng Phạm Văn S ở xóm 1, xã T. Th giới thiệu S là người mua ma túy của Đ. Sau đó, Đ đã bán cho S 01 gói ma túy với số tiền là 300.000 đồng, việc giao nhận tiền và ma túy giữa Đ, S vừa diễn ra thì bị lực lượng Đội CSĐT về ma túy, Công an huyện Nga Sơn phát hiện, bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ trên người Phạm Văn S 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất màu trắng, dạng tinh thể. Thu giữ trên người Mai Thành Đ 13 gói nilon màu trắng, bên trong các gói chứa chất màu trắng, dạng tinh thể; 43 vỏ túi nilon trắng và số tiền Việt Nam 500.000 đồng. Ngoài ra, Cơ quan CSĐT còn thu giữ của Đ 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, JUPITER biển kiểm soát 14K2 – 5186 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu trắng.

Ngày 08/6/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định Th phần, trọng lượng của các gói chất màu trắng dạng cục vụn đã thu giữ. Tại Kết luận giám định số 1158/MT-PC54 ngày 11/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì niêm phong mặt trước ghi “Qủa tang” thu giữ trên người Phạm Văn S gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,056g, loại Methamphetamine và hoàn lại mẫu vật sau giám định là 0,045g methamphetamine; chất màu trắng dạng cục vụn của phong bì niêm phong mặt trước ghi “Thu giữ trên người của Mai Thành Đ” gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 2,690g, loại Methamphetamine và hoàn lại mẫu vật sau giám định là 2,368g methamphetamine. Như vậy, tổng khối lượng ma túy mà Mai Thành Đ mua bán trái phép là 2,746g methamphetamine.

Về nguồn gốc số ma túy, quá trình điều tra Mai Thành Đ khai nhận là nhờ một người đàn ông tên Tuấn không biết quê quán, địa chỉ, Đ quen biết trong thời gian đi làm ăn tại tỉnh Quảng Ninh mua với số tiền 3.000.000 đồng gửi xe khách Quảng Ninh – Thanh Hóa về để Đ sử dụng và san chia Th nhiều gói nhỏ bán cho ai cần mua để kiếm lời.

Đối với Phạm Văn S và Nguyễn Tiến Th là những đối tượng nghiện ma túy, rủ nhau đi mua ma túy của Đ về cùng sử dụng, do khối lượng ma túy mua chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Công an huyện Nga Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với S và Th.

Số vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì thư bên trong có tổng khối lượng là 2,413g Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu trắng; 43 vỏ túi nilon kích thước 1x1cm và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER biển kiểm soát 14K2 - 5186 hiện đang được nhập kho, quỹ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn chờ xử lý.

Qúa trình điều tra đã xác định; số tiền 500.000 đồng mà S đưa cho Đ, trong đó 300.000 đồng là số tiền S mua ma túy của Đ, còn lại 200.000 đồng là S cho Th vay để Th trả nợ cho Đ do Th vay của Đ trước đó. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER bển kiểm soát 14K2 – 5186 Đ mượn của anh Vũ Văn V nhưng anh V không chứng minh được nguồn gốc, chủ sở hữu và không cung cấp được các giấy tờ hợp lệ theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKSNS-MT ngày 07/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố bị cáo Mai Thành Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã Th khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả đối với hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Thành Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Thành Đ từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2018.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng thu lợi bất chính từ việc bán ma túy của Đ cho S, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA của Đ dùng để liên lạc bán ma túy và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER biển kiểm soát 14K2 – 5186 Đ sử dụng không rõ nguồn gốc. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có khối lượng 2,413g Methamphetamine còn lại sau giám định và 43 vỏ túi nilon trắng. Trả lại cho Mai Thành Đ số tiền 200.000 đồng không liên quan đến vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà, bị cáo Mai Thành Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo đã thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng về thời gian, địa điểm và các chứng cứ khác phản ánh tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do hám lợi bất chính, khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 08/6/2018 Mai Thành Đ đã bán cho Phạm Văn S là đối tượng nghiện ma túy 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,056g với giá 300.000 đồng tại xóm 4, xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hóa thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn phát hiện bắt giữ cùng tang vật gồm: 01 gói Methamphetamine nói trên. Khám xét thu giữ trên người Đ 01 điện thoại di động; tiền Việt Nam 500.000 đồng; 13 gói methamphetamine có khối lượng 2,690g, 43 vỏ túi nilon trắng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 14K2 - 5186. Tổng khối lượng ma túy mà Mai Thành Đ mua bán trái phép là 2,746g Methamphetamine. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn truy tố bị cáo Mai Thành Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, bỡi hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, là vấn đề đang được rất quan tâm và trở nên nhức nhối trong xã hội hiện nay. Hiểm họa về ma túy đã đẩy nhiều người, nhiều gia đình, nhiều thế hệ vào vòng lao lý, làm xói mòn về đạo đức, làm suy thoái về giống nòi, là nguyên nhân dẫn tới làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Hơn ai hết, bản thân bị cáo phải là người hiểu rõ nhất tác hại của ma túy đối với sức khỏe, nhân cách, kinh tế, hạnh phúc gia đình và hậu quả khôn lường của nó, nhưng bị cáo vẫn không ý thức được điều đó mà còn mua bán để kiếm lời, tiếp tay cho những đối tượng nghiện ma túy khác. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Mai Thành Đ là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã Th khẩn khai báo hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải. Cho nên, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Từ những nhận xét đánh giá trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở Th công dân tốt, biết chấp hành pháp luật.

[5] Khi quyết định hình phạt xét thấy bị cáo thuộc đối tượng sử dụng chất ma túy, không có việc làm ổn định, chưa có vợ con, nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với; số tiền 300.000 đồng thu lợi bất chính của Đ từ việc bán ma túy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu trắng của Đ dùng để liên lạc bán ma túy cho S và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER biển kiểm soát 14K2 – 5186, Đ mượn của anh Vũ Văn V nhưng anh V không chứng minh được nguồn gốc, chủ sở hữu và không cung cấp được các giấy tờ theo quy định. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có khối lượng ma túy 2,413g methamphetamine còn lại sau giám định và 43 vỏ túi nilon trắng. Trả lại cho Mai Thành Đ số tiền 200.000 đồng do Nguyễn Tiến Th trả nợ trước đó, không liên quan đến vụ án.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[8] Qúa trình điều tra, truy tố; Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự. Khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Mai Thành Đ phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Mai Thành Đ 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2018.

*Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 300.000đ (Bai trăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA,JUPITER biển kiểm soát 14K2 - 5186. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong có khối lượng 2,413g Methamphetamine còn lại sau giám định và 43 vỏ túi nilon trắng. Trả lại cho Mai Thành Đ số tiền 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

*Về án phí: Buộc bị cáo Mai Thành Đ phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

*Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh Vũ Văn V) được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Thanh Hóa

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

891
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2018/HSST ngày 10/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về