Bản án 34/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Hữu C, sinh năm 1974, tại Tiền Giang; hộ khẩu: Ấp Mỹ Phú, xã L, huyện C, tỉnh T; nơi tạm trú: Ấp Đ, xã M, huyện D, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1954 và con bà Chiêm Thị B, sinh năm 1955 đã chết; có 01 người em; có vợ Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1976; có 02 người con ruột, sinh năm 1997 và 2001; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 34/2019/HSST-LC ngày 13 tháng 8 năm 2019 của TAND huyện Dầu Tiếng. Có mặt.

2. Họ và tên: Bùi Hữu L, sinh năm 1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Hữu L, sinh năm 1952 và con bà Lý Thị T, sinh năm 1957; có 02 chị và 03 người em; có vợ Lê Thị N, sinh năm 1986; có 02 người con ruột, sinh năm 2006 và 2013; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 57/2015/HSST ngày 28/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B, xét xử Bùi Hữu L về tội Đánh bạc, mức phạt: phạt tiền 5.000.000 đồng. Đã chấp hành xong trong năm 2017 về hình phạt và án phí; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 35/2019/HSST-LC ngày 13 tháng 8 năm 2019 của TAND huyện Dầu Tiếng. Có mặt.

3. Họ và tên: Phan Tấn L (tên thường gọi là B), sinh năm 1989, tại Bình Phước; nơi cư trú: Ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Tấn T, sinh năm 1953, đã chết và con bà Phan Thị Khánh V, sinh năm 1961; có 01 anh và 02 em; có vợ tên Trần Thị Trúc A, sinh năm 1992; có 02 người con ruột, sinh năm 2011 và năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 36/2019/HSST-LC ngày 13 tháng 8 năm 2019 của TAND huyện Dầu Tiếng. Có mặt.

4. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1978, tại Cần Thơ; nơi cư trú: Ấp T, xã M, huyện D, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, không rõ năm sinh, đã chết và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1936 đã chết; có 03 người chị và 05 người anh; có vợ Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1982; có 03 người con ruột, sinh năm 2000, 2004 và 2008; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 37/2019/HSST-LC ngày 13 tháng 8 năm 2019 của TAND huyện Dầu Tiếng. Có mặt.

5. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1973, tại Cần Thơ; nơi cư trú: Ấp T, xã M, huyện D, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, không rõ năm sinh và con bà Nguyễn Thị K, không rõ năm sinh, đã chết; có 02 người anh, 01 người chị và 01 người em; có vợ Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1971; có 01 người con ruột, sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” theo Lệnh số 38/2019/HSST-LC ngày 13 tháng 8 năm 2019 của TAND huyện Dầu Tiếng. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thái N, sinh năm 1984; hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh B. (Có mặt)

2. Ông Lê Quốc D, sinh năm 1977; hộ khẩu thường trú: Ấp Cần Đôn, xã M, huyện D, tỉnh B. (Có mặt).

3. Ông Trương T, sinh năm 1975; hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã Minh Long, huyện C, tỉnh B. (Có đơn xin vắng mặt).

4. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1967; hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước. (Có đơn xin vắng mặt).

5. Bà Phan Thi Khánh V, sinh năm 1961; hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh B. (Có đơn xin vắng mặt).

6. Ông Lê Hoàng T, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã M, huyện D, tỉnh B. (Có đơn xin vắng mặt).

7. Bà Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1976; hộ khẩu thường trú: Ấp Mỹ Phú, xã L, huyện C, tỉnh T; nơi tạm trú: Ấp Đ, xã M, huyện D, tỉnh B. (Có đơn xin vắng mặt).

8. Bà Nguyễn Thi Kim N, sinh năm 1981; hộ khẩu thường trú: Ấp Tân Minh, xã M, huyện D, tỉnh D. (Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 03/01/2019, Công an xã M, huyện D bắt quả tang tại hộ ông Nguyễn Hữu C, sinh năm 1974, tạm trú ấp Đ, xã M, huyện D, tỉnh B (nơi đăng ký hộ khẩu: Ấp Mỹ Phú, xã L, thị xã C, tỉnh T), các đối tượng gồm: Phan Tấn L; Bùi Hữu L; Nguyễn Văn T; Nguyễn Văn T; Lê Quốc D, Nguyễn Thái N đang đánh bạc dưới hình thức binh sập xám thắng thua bằng tiền; mỗi ván đặt số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) và làm cái xoay vòng, có đối tượng có mặt tại địa điểm đánh bạc nhưng không tham gia. Vật chứng thu giữ gồm:

Trên chiếu bạc:

+ Tiền Việt Nam 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

+ 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét.

+ 26 (hai mươi sáu) lá bài tây. Thu gần chiếu bạc:

+ 05 (năm) bộ bài tây chưa qua sử dụng.

Thu giữ tiền Việt Nam trên người các đối tượng:

1. Phan Tấn L: Tiền Việt Nam là 30.181.000 đồng (Ba mươi triệu một trăm tám mươi mốt ngàn đồng).

2. Bùi Hữu L: Tiền Việt Nam là 11.200.000 đồng (Mười một triệu hai trăm ngàn đồng).

3. Nguyễn Văn T: Tiền Việt Nam là 172.000 đồng (Một trăm bảy mươi hai ngàn đồng).

4. Nguyễn Văn T: Tiền Việt Nam là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

5. Lê Quốc D: Tiền Việt Nam là 3.760.000 đồng (Ba triệu bảy trăm sáu mươi ngàn đồng).

6. Nguyễn Thái N: Tiền Việt Nam là 31.200.000 đồng (Ba mươi mốt triệu hai trăm ngàn đồng).

7. Nguyễn Hữu C: Tiền Việt Nam là 1.633.000 đồng.

8. Nguyễn Thị Lệ H: Tiền Việt Nam là 2.710.000 đồng.

9. Nguyễn Thị Kim N: Tiền Việt Nam là 530.000 đồng.

Tổng số tiền thu trên chiếu bạc và trên người các đối tượng là 86.386.000 đồng.

Thu giữ 06 xe mô tô: 61H1-238.22; 93B1-245.60; 50VA-1743; 93F5-0219; 61N7-7303; 93B1-060.47.

Quá trình điều tra đến nay kết luận như sau:

1. Bị cáo Nguyễn Hữu C: Ngày 03/01/2019, Chất ở nhà thì có L, L, T, T đến chơi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì C, L, L, T, T rủ nhau chơi đánh bạc. C là người cung cấp địa điểm đánh bạc; cung cấp bài tây và 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét trải xuống đất để L, L, T, T chơi đánh bạc. L, L, T, T quy định ván bài nào có một tụ là mậu binh thì các tụ còn lại bỏ ra số tiền 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) gom lại đưa cho Nguyễn Văn C đi mua bài, đồ ăn nước uống, nếu còn dư tiền thì C lấy cất giữ. Ngày 03/01/2019, Nguyễn Hữu C lấy số tiền xâu được 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng). C đã mua bài, đồ ăn, nước uống hết 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi ngàn đồng) còn lại 150.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) C cất giữ. C tự nguyện nộp 530.000 đồng là số tiền C thu được của những lần đánh bạc trước. Công an thu giữ của chất số tiền 1.633.000 đồng.

2. Bị cáo Bùi Hữu L: Ngày 03/01/2019, L nhờ bạn tên H chở đến nhà C chơi. Khi đi, L mang theo số tiền: 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sử dụng vào mục đích đánh bạc, chơi khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thắng được số tiền: 6.200.000 đồng (Sáu triệu hai trăm ngàn đồng), Công an thu giữ số tiền: 11.200.000 đồng (Mười một triệu hai trăm ngàn đồng).

3. Bị cáo Phan Tấn L: Ngày 03/01/2019, L điều khiển xe mô tô biển số 93B1-060.49 mang theo số tiền 32.200.000 đồng (Ba mươi hai triệu hai trăm ngàn đồng) đi tìm vườn cây cao su để mua. Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, L ghé vào nhà C để chơi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì L lấy ra số tiền 2.100.000 đồng để chơi đánh bạc. Mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), chơi được khoảng 30 – 40 ván, thua hết số tiền: 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng), còn lại số tiền: 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) để trên chiếu bạc thì bị Công an thu giữ.

4. Bị cáo Nguyễn Văn T: Ngày 03/01/2019, T điều khiển xe mô tô biển số 50VA-1743 đến nhà C để mời đám giỗ. Khi đến nơi, tại nhà C có đánh bạc nên T dùng 1.972.000 để tham gia đánh bạc, chơi được khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: đồng 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thua hết số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm ngàn đồng), còn lại số tiền 172.000 đồng (Một trăm bảy mươi hai ngàn đồng) Công an thu giữ.

5. Bị cáo Nguyễn Văn T: Ngày 03/01/2019, T điều khiển xe mô tô biển số 61N7-7303 chở vợ là Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1981, ngụ tại ấp T, xã M, huyện D, tỉnh B vào lô cao su bôi thuốc. T để N bôi thuốc còn T đến nhà C chơi. Tại đây, T dùng số tiền: 2.350.000 đồng (Hai triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng) để tham gia đánh bạc, chơi được khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thua hết số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi ngàn đồng), còn lại 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) Công an thu giữ.

Như vậy, các bị cáo đã dùng để đánh bạc với số tiền (3.000.000 đồng (trên chiếu bạc) + 11.200.000 đồng (thu của bị cáo L) + 172.000 đồng (thu của T) + 2.000.000 đồng (thu của T) + 500.000 đồng (tiền xâu các bị cáo giao cho C) là 16.872.000 đồng.

Đối với Nguyễn Thái N: Ngày 03/01/2019, N điều khiển xe mô tô biển số 93B1-245.60 đem theo số tiền 30.000.000 đồng và 300.000 đồng đi mua cây cao su thanh lý để khai thác mủ. Đến khoảng gần 13 giờ cùng ngày, khi đi ngang qua nhà C, N thấy có đông người nên ghé vào. N thấy có đánh bạc nên N đứng xem, một lát sau, có D vào nên N rủ D đánh bạc bằng hình thức bắt tụ. N lấy số tiền 300.000 đồng để tham gia đánh bạc. N bắt tụ của L; D bắt tụ của T; mỗi lần 100.000 đồng. N thắng D 1.300.000 đồng thì N và D nghỉ. N bị tạm giữ 31.200.000 đồng. Số tiền dùng để đánh bạc là 1.600.000 đồng.

Đối với Lê Quốc D: Ngày 03/01/2019, D điều khiển xe mô tô biển số 61H1-238.22, đem theo 5.060.000 đồng đến nhà C chơi. Đến nơi, N rủ D đánh bạc nên D dùng số tiền 4.800.000 đồng để đánh bạc, D bắt tụ của T, N bắt tụ của L, mỗi ván 100.000 đồng, khi D thua số tiền 1.300.000 đồng thì D và N nghỉ. D bị tạm giữ 3.760.000 đồng.

Đối với hành vi của Nguyễn Thái N và Lê Quốc D, lúc đầu, D dùng 4.800.000 đồng, N dùng 300.000 đồng để chơi đánh bạc. Sau khi thua 1.300.000 đồng thì D và N nghỉ. Lúc bị bắt, số tiền của D và N dùng vào việc đánh bạc là 1.600.000 đồng, không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với H (bạn của L), L nhờ H chở đi chơi, khi chở L đến nhà C thì Hiệp về, H không biết L đi đánh bạc nên không xử lý.

Đối với Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị Lệ H có mặt tại nơi đánh bạc nhưng không đánh bạc nên không bị xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKSDT-HS ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu C, Bùi Hữu L, Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu C, Bùi Hữu L, Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T về tội “Đánh bạc”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 35, Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 38, Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Hữu L từ 06 đến 08 tháng tù.

+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Tấn L từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

- Về biện pháp tư pháp:

+ Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với các khoản tiền mà các bị cáo dùng vào việc đánh bạc như sau:

Số tiền 3.000.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc;

Số tiền 11.200.000 đồng thu của Bùi Hữu L; Số tiền 172.000 đồng thu của Nguyễn Văn T; Số tiền 2.000.000 đồng thu của Nguyễn Văn T;

Số tiền 680.000 đồng thu của Nguyễn Hữu C (gồm số tiền 150.000 đồng là tiền xâu mà bị cáo C thu được khi các bị cáo đánh bạc; 530.000 đồng tiền C thu được của những lần đánh bạc trước, C tự nguyện đóng để nộp Ngân sách nhà nước) trong tổng số tiền đã thu của C 1.633.000 đồng;

Số tiền 1.600.000 đồng của N trong tổng số tiền 31.200.000 đồng thu của Nguyễn Thái N;

Đối với xe mô tô loại cup 50, màu xanh, biển số 50VA-1743, số máy 9643913, số khung không có (xe không bửng, không có gương chiếu hậu bên phải, đã củ) xe không có giấy tờ hợp pháp nên đề nghị giao cho Ủy ban nhân dân huyện Dầu Tiếng để xử lý theo thẩm quyền.

Đề nghị trả lại các khoản tiền, tài sản không dùng vào việc đánh bạc cho: Bị cáo Phan Tấn L số tiền 30.181.000 đồng đã thu của L.

Bị cáo Nguyễn Hữu C số tiền 953.000 đồng thu trong số tiền 1.633.000 đồng của bị cáo C không dùng vào việc đánh bạc; 01 xe mô tô màu nâu, biển số 93F5-0219; số máy 10746641, số khung 0600178 do Trương T, sinh năm 1975, ngụ tại ấp 1, xã Minh Long, huyện C, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Ông T đã bán xe trên cho Nguyễn Hữu C nhưng không làm thủ tục sang tên; bị cáo C không dùng xe vào việc đánh bạc.

Ông Nguyễn Thái N số tiền 29.600.000 đồng của Ngọc trong tổng số tiền đã thu 31.200.000 đồng;

Bà Nguyễn Thị Lệ H số tiền 2.710.000 đồng; Bà Nguyễn Thị Kim N số tiền 530.000 đồng;

Ông Lê Quốc D số tiền 3.760.000 đồng và 01 xe mô tô loại FUTURE, màu xám - đen, biển số 61H1-238.22, số máy 2013595, số khung RLHJ05360EY013560 của Lê Quốc D;

Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1967, ngụ tại ấp 2, xã Minh Long, huyện C, tỉnh B 01 xe mô tô loại Wave anpha, màu trắng - đen - bạc, biển số 93B1-245.60, số máy JA39E0393331, số khung RLHJA390HY418189 vì ngày 03/01/2019, Ngọc mượn xe của T, T không biết việc N đánh bạc nên cần trả lại xe cho T.

Bà Phan Thị Khánh V 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu đen, biển số 93B1-060.47, số máy 5C64-749206, số khung C640CY749193 (không gương chiếu hậu, bị khóa cổ xe) vì ngày 03/01/2019, Phan Tấn L mượn xe đi, bà V không biết L đi đánh bạc.

Bị cáo Nguyễn Văn T 01 xe mô tô loại xe FUJIKI, màu xanh, biển số 61N7-7303, số máy 02358, số khung 61001403 (xe không bửng, không gương chiếu hậu bên phải, đã củ) do Lê Hoàng T, sinh năm 1986, ngụ tại ấp Tân Minh, xã M, huyện D, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. T bán lại cho Nguyễn Văn T nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 03/01/2019, T chở vợ đi làm rồi ghé nhà C chơi đánh bạc, T không dùng xe này làm phương tiện đánh bạc.

Tịch thu tiêu hủy:

Đối với: 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét; 26 (hai mươi sáu) lá bài tây; 05 (năm) bộ bài tây chưa qua sử dụng là công cụ thực hiện tội phạm, cần tịch thu tiêu hủy.

(Hiện nay, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng đang quản lý số tiền 86.386.000 đồng thể hiện theo biên lai thu tiền số AA/2014/0002460 ngày 29 tháng 8 năm 2019 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 9 năm 2019)

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông D, ông N xin nhận lại số tiền, tài sản không dùng vào việc đánh bạc; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa đã được Hội đồng xet xử công bố lời khai tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, Kiểm sát viên, Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không bị ai khiếu nại gì về việc tiến hành các hoạt động tố tụng đối với vụ án nên toàn bộ hoạt động tố tụng, thu thập chứng cứ đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hữu C, Bùi Hữu L, Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 03/01/2019, Phan Tấn L, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T đánh bạc tại nhà Nguyễn Hữu C thuộc ấp Đồng Sơn, xã M, huyện D, tỉnh B, hình thức binh xập xám với số tiền 16.872.000 đồng; Nguyễn Hữu C không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng C cho các bị cáo L, L, T, T dùng chỗ ở của mình để đánh bạc; cung cấp bài, mền và thu tiền xâu. Lời khai nhận của các bị cáo là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở xác định Bản Cáo trạng số 35/CT-VKSDT-HS ngày 12/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Hữu C, Bùi Hữu L, Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T, về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo tuy đơn giản nhưng đánh bạc thắng thua bằng tiền là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng nơi xảy ra vụ án, là hệ lụy kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác, làm cho quần chúng nhân dân mất lòng tin vào chính quyền khi để xảy ra tệ nạn xã hội.

[4] Xét tính chất, các bị cáo Phan Tấn L, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu C là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, thế nhưng các bị cáo bất chấp hậu quả để thực hiện tội phạm. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Các bị cáo thực hiện tội phạm đồng phạm giản đơn; các bị cáo rủ nhau đánh bạc, không xác định ai rủ ai.

Các bị cáo cùng phạm tội nhưng Hội đồng xét xử phân tích tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của từng bị cáo để cân nhắc mức hình phạt của từng bị cáo. Cụ thể:

Ngày 03/01/2019, Chất ở nhà thì có L, L, T, T đến chơi, đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì L, L, T, T rủ nhau chơi đánh bạc. C không trực tiếp đánh bạc mà là người cung cấp địa điểm đánh bạc; cung cấp bài tây và 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét trải xuống đất để L, L, T, T chơi đánh bạc. L, L, T, T quy định ván bài nào có một tụ là mậu binh thì các tụ còn lại bỏ ra số tiền 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) gom lại đưa cho Nguyễn Văn C đi mua bài, đồ ăn nước uống, nếu còn dư tiền thì C lấy cất giữ. Ngày 03/01/2019, Nguyễn Hữu C lấy số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) đi mua bài, đồ ăn nước uống hết 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi ngàn đồng) còn lại 150.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) C cất giữ. Bị cáo L tham gia đánh bạc với số tiền 2.100.000 đồng để chơi đánh bạc. Mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), chơi được khoảng 30 – 40 ván, thua hết số tiền: 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng), còn lại số tiền: 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) để trên chiếu bạc bị Công an thu giữ. Bị L mang theo số tiền: 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sử dụng vào mục đích đánh bạc, chơi khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thắng được số tiền: 6.200.000 đồng (Sáu triệu hai trăm ngàn đồng), Công an thu giữ số tiền: 11.200.000 đồng. Bị cáo T dùng 1.972.000 để tham gia đánh bạc, chơi được khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thua hết số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm ngàn đồng), còn lại số tiền 172.000 đồng (Một trăm bảy mươi hai ngàn đồng) Công an thu giữ. Bị cáo T dùng số tiền: 2.350.000 đồng (Hai triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng) để tham gia đánh bạc, chơi được khoảng 30 – 40 ván, mỗi một ván đặt số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), thua hết số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi ngàn đồng), còn lại 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) Công an thu giữ.

[5] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: Các bị cáo Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu C có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Riêng bị cáo Bùi Hữu L chỉ có tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã từng phạm tội thể hiện tại bản án số 57/2015/HSST ngày 28/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, xét xử Bùi Hữu L về tội Đánh bạc, mức phạt: phạt tiền 5.000.000 đồng. Đã chấp hành xong trong năm 2017 về hình phạt và án phí. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mang tính tự phát; số tiền dùng đánh bạc của các bị cáo không lớn.

Ngoài ra, bị cáo T không biết chữ; bị cáo T có trình độ học vấn thấp (05/12), nhận thức pháp luật kém; bị cáo L có cha là Bùi Hữu L có huy chương kháng chiến hạng nhì (là người có công với đất nước) là tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Như vậy, tùy từng tính chất, mức độ, số tiền tham gia đánh bạc và tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự mà Hội đồng xét xử cân nhắc mức hình phạt tương xứng đối với từng bị cáo.

[6] Ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ phù hợp với các tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo Bùi Hữu L từ 06 đến 08 tháng tù là phù hợp; riêng các bị cáo Phan Tấn L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T từ với mức phạt từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng là chưa tương ứng, chưa phù hợp với từng tính chất, mức độ, số tiền tham gia đánh bạc và tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự của từng bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc cho phù hợp hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát.

Đối với hành vi của Nguyễn Thái N và Lê Quốc D, lúc đầu, D dùng 4.800.000 đồng, N dùng 300.000 đồng để chơi đánh bạc. Sau khi thua 1.300.000 đồng thì D và N nghỉ. Khi bị bắt chỉ xác định được số tiền của D và N dùng vào việc đánh bạc là 1.600.000 đồng, không đủ yếu tố cấu thành tội phạm đối với D và N nên bị xử phạt vi phạm hành chính là đúng.

Đối với H (bạn của L), L nhờ H chở đi chơi, khi chở L đến nhà C thì H về nên H không biết L đi đánh bạc nên không xử lý là đúng.

Đối với Nguyễn Thị Kim N, Nguyễn Thị Lệ H có mặt tại nơi đánh bạc nhưng không đánh bạc nên không bị xử lý chỉ là đúng.

[7] Về xử lý vật chứng, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Đối với 3.000.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc, đây là tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 30.181.000 đồng thu của Phan Tấn L, L không dùng vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho L.

Đối với số tiền 11.200.000 đồng thu của Bùi Hữu L, đây là số tiền L dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 172.000 đồng thu của Nguyễn Văn T, đây là số tiền T dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng thu của Nguyễn Văn T, đây là số tiền T dùng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 1.633.000 đồng thu của Nguyễn Hữu C, trong đó số tiền 150.000 đồng là tiền xâu, C thu được nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước; 530.000 đồng tiền C thu được của những lần đánh bạc trước, C tự nguyện đóng để nộp Ngân sách nhà nước; số tiền 953.000 đồng C không dùng vào việc đánh bạc nên đề nghị trả cho C.

Đối với số tiền 31.200.000 đồng thu của Nguyễn Thái N, trong đó 1.600.000 đồng N dùng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước; số tiền 29.600.000 đồng của N không liên quan đến việc đánh bạc nên cần trả lại cho N.

Đối với số tiền 2.710.000 đồng thu của Nguyễn Thị Lệ H và 530.000 đồng thu của Nguyễn Thị Kim N, không liên quan đến việc đánh bạc nên đề nghị trả lại cho H và N.

Đối với số tiền 3.760.000 đồng thu của Lê Quốc D, D không dùng vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho D.

Đối với xe mô tô 93F5-0219 do Trương T, sinh năm 1975, ngụ tại ấp 1, xã M, huyện C, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. T đã bán xe trên cho Nguyễn Hữu C nhưng không làm thủ tục sang tên, C không dùng xe này vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho C.

Đối với xe mô tô biển số 93B1-245.60 của Nguyễn Đức T, sinh năm 1967, ngụ tại ấp 2, xã M, huyện C, tỉnh B. Ngày 03/01/2019, N mượn xe của T, T không biết việc N đánh bạc nên đề nghị trả lại xe cho T.

Đối với xe mô tô biển số 93B1-060.47 của Phan Thị Khánh V, ngày 03/01/2019, Phan Tấn L mượn xe đi, bà V không biết L đi đánh bạc nên đề nghị trả lại cho bà V.

Đối với xe mô tô biển số 61N7-7303 do Lê Hoàng T, sinh năm 1986, ngụ tại ấp Tân Minh, xã M, huyện D, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. T bán lại cho Nguyễn Văn T nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 03/01/2019 T chở vợ đi làm rồi ghé nhà Chất chơi đánh bạc, T không dùng xe này làm phương tiện phạm tội nên đề nghị trả lại cho T.

Đối với xe mô tô biển số 61H1-238.22 của Lê Quốc D, ban đầu, D không có mục đích đi đánh bạc nên nên đề nghị lại xe cho D.

Đối với xe mô tô biển số 50VA-1743, xe không có giấy tờ hợp pháp nên đề nghị giao cho Ủy ban nhân dân huyện Dầu Tiếng để xử lý theo thẩm quyền.

Đối với: 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét; 26 (hai mươi sáu) lá bài tây; 05 (năm) bộ bài tây chưa qua sử dụng là công cụ thực hiện tội phạm nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tất cả những đề nghị về việc xử lý vật chứng của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Phan Tấn L, Bùi Hữu L, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn T, Nguyễn Hữu C phạm tội đánh bạc.

+ Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

+ Căn cứ khoản 1 Điều 321, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Hữu L 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

+ Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Tấn L 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

+ Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)

+ Căn cứ khoản 1, 3 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)

Kể từ ngày bản án có hiệu lực, nếu các bị cáo L, T, T và C không nộp số tiền trên, thì các bị cáo còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 34/2019/HSST-LC ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đối với bị cáo Nguyễn Hữu C.

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 35/2019/HSST-LC ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đối với bị cáo Bùi Hữu L .

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 36/2019/HSST-LC ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đối với bị cáo Phan Tấn L.

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 37/2019/HSST-LC ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 38/2019/HSST-LC ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

I. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

1. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

Số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) trên thu chiếu bạc.

Số tiền 11.200.000 đồng (mười một triệu hai trăm ngàn đồng) thu của Bùi Hữu L;

Số tiền 172.000 đồng (một trăm bảy mươi hai ngàn đồng) thu của Nguyễn Văn T;

Số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) thu của Nguyễn Văn T;

Số tiền 680.000 đồng (sáu trăm tám mươi ngàn) thu của Nguyễn Hữu C (trong đó có số tiền 150.000 đồng là tiền xâu mà bị cáo Ct thu được khi các bị cáo đánh bạc; 530.000 đồng tiền C thu được của những lần đánh bạc trước).

Số tiền 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm ngàn đồng) của N trong tổng số tiền 31.200.000 đồng thu của Nguyễn Thái N;

2. Giao cho Ủy ban nhân dân huyện Dầu Tiếng để xử lý theo thẩm quyền: Đối với xe mô tô loại cup 50, màu xanh, biển số 50VA-1743, số máy 9643913, số khung không có (xe không bửng, không có gương chiếu hậu bên phải, đã củ) xe không có giấy tờ hợp pháp.

3. Trả lại tiền, tài sản cho:

Bị cáo Phan Tấn L số tiền 30.181.000 đồng (ba mươi triệu một trăm tám mươi mốt ngàn đồng) đã thu của Lợi.

Bị cáo Nguyễn Hữu C số tiền 953.000 đồng và 01 xe mô tô màu nâu, biển số 93F5-0219; số máy 10746641, số khung 0600178 do Trương Tài, sinh năm 1975, ngụ tại ấp 1, xã M, huyện C, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu.

Ông Nguyễn Thái N số tiền 29.600.000 đồng (hai mươi chín triệu sáu trăm ngàn đồng);

Ông Lê Quốc D số tiền 3.760.000 đồng và 01 xe mô tô loại FUTURE, màu xám - đen, biển số 61H1-238.22, số máy 2013595, số khung RLHJ05360EY013560;

Ông Nguyễn Đức T 01 xe mô tô loại Wave anpha, màu trắng - đen -bạc, biển số 93B1-245.60, số máy JA39E0393331, số khung RLHJA390HY418189;

Bà Phan Thị Khánh V 01 xe mô tô hiệu Yamaha, màu đen, biển số 93B1-060.47, số máy 5C64-749206, số khung C640CY749193 (không gương chiếu hậu, bị khóa cổ xe);

Bị cáo Nguyễn Văn T 01 xe mô tô loại xe FUJIKI, màu xanh, biển số 61N7-7303, số máy 02358, số khung 61001403 (xe không bửng, không gương chiếu hậu bên phải, đã củ) do Lê Hoàng T, sinh năm 1986, ngụ tại ấp T, xã M, huyện D, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu.

Bà Nguyễn Thị Lệ H số tiền 2.710.000 đồng (hai triệu bảy trăm mười ngàn đồng);

Bà Nguyễn Thị Kim N số tiền 530.000 đồng (năm trăm ba mươi ngàn đồng);

4. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) tấm chăn nhiều màu, viền màu nâu có kích thước: 02 mét x 02 mét; 26 (hai mươi sáu) lá bài tây; 05 (năm) bộ bài tây chưa qua sử dụng.

(Các khoản tiền, tài sản tịch thu nộp ngân sách nhà nước; trả lại, tiêu hủy nêu trên, hiện nay, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng đang quản lý trong tổng số tiền 86.386.000 đồng thể hiện theo biên lai thu tiền số AA/2014/0002460 ngày 29 tháng 8 năm 2019 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 9 năm 2019).

III. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Nguyễn Hữu C chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Bị cáo Bùi Hữu L chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Phan Tấn L chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn T chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn T chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng)

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa (ông N, ông D) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 04/10/2019). Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về