Bản án 34/2019/HS-ST ngày 14/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2019/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Đức A; Sinh ngày: 14/4/1992; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 12/8 đường MC, Phường O, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Anh T và bà: Trần Kim T1; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 25/4/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 20 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số: 38/2017/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 08/11/2018 (Giấy chứng nhận về việc chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc số: 887/CN-CS2 ngày 06/11/2018 của Cơ sở cai nghiện ma túy Số 2); Bị bắt, tạm giam ngày 13/01/2019. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Tiến Đ; Sinh năm: 1991; Trú tại: 19/8 đường BĐ, Phường O, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 13/01/2019, tại đối diện nhà số 1442 đường VVK, Phường A, Quận F, tổ tuần tra 363 Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Bùi Tiến Đ đang điều khiển xe gắn máy biển số 59L2-709.23 chở Lê Đức A có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra hành chính. Thấy Công an, Đức A nhảy xuống xe bỏ chạy, đồng thời lấy trong túi quần phía trước bên phải ra 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu ném xuống kênh TH, Phường A, Quận F, do gói nylon nổi trên mặt trước, nên tổ tuần tra đã thu giữ. Cùng lúc, Đ xin đi vệ sinh và lợi dụng lúc mọi người không để ý, Đ ném chùm chìa khóa xe có kẹp gói nylon bên trong chứa tinh thể rắn không màu xuống sông, nhưng cũng bị tổ tuần tra phát hiện thu giữ. Sau đó đã giao Đức A, Đ cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Đức A khai: Khoảng 23 giờ ngày 12/01/2019, Đức A đến khu vực hẻm BM, Phường N, Quận H mua từ một người thanh niên (không rõ lai lịch) 01 bịch ma túy đá giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua xong, Đức A đem bịch ma túy đến quán Karaoke B trên đường TĐN, quận BT lấy ra một ít sử dụng, số còn lại Đức A cất trong túi quần phía trước bên phải. Đến 15 giờ ngày 13/01/2019, Đức A điện thoại nhờ Bùi Tiến Đ chở về nhà, Đạt đồng ý và điều khiển xe gắn máy biển số 59L2-709.23 đến quán Karaoke Ben chở Đức A về đến đối diện nhà số 1442 đường VVK thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.

Bùi Tiến Đ khai cũng tương tự và xác nhận không biết Lê Đức A cất giữ ma túy trong người cũng như không thấy, không chứng kiến việc Lê Đức A ném gói ma túy xuống kênh TH vì khi phát hiện thấy Công an, Đức A đã nhảy xuống xe chạy bộ, nên khoảng cách giữa Đ và Đức A lúc đó rất xa. Còn gói ma túy (kẹp trong chìa khóa xe) mà Công an thu giữ là của Đ. Về nguồn gốc gói ma túy này là do Đ nhờ một người bạn tên L (không rõ lai lịch) mua giùm với giá 200.000 đồng để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 402/KLGĐ-H ngày 21 tháng 01 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận:

- Gói 1: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Đặng Công Dũng (người chứng kiến), Bùi Tiến Đ và hình dấu Công an Phường 1, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0962g (không phẩy không chín sáu hai gam), loại Methamphetamine.

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Hồ Văn Nghĩa (người chứng kiến), Lê Đức A và hình dấu Công an Phường 1, Quận 6 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,4812g (ba phẩy bốn tám một hai gam), loại Methamphetamine.

Đi với Bùi Tiến Đ, do không liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Đức A, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn người thanh niên bán ma túy cho Lê Đức A và người tên L mua giùm ma túy cho Bùi Tiến Đ, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 42/CT-VKS-Q6 ngày 16 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Đức A về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đức A khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ 01 bịch ma túy (loại ma túy đá) để sử dụng và khi phát hiện thấy Công an, bị cáo đã ném bịch ma túy này xuống kênh TH thuộc Phường A, Quận F nhằm phi tang vào chiều ngày 13/01/2019 như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Đức A như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lê Đức A từ 03 năm đến 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 402/Q6/G2, có các chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn.

Trả lại bị cáo Lê Đức A 01 chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei: 356929091911145.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Lê Đức A nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Đức A tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ tang vật, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Đức A đã cất giữ 3,4812 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng, là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Lê Đức A không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Lê Đức A là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bản thân bị cáo Lê Đức A ngày 25/4/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 5 quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 20 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Lẽ ra bị cáo phải biết rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội, nhưng ngược lại, vẫn tiếp tục sống buông thả và phạm tội.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lê Đức A là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Lê Đức A còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 402/Q6/G2, có các chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei: 356929091911145 thu giữ của bị cáo Lê Đức A. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 25/PNK ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL70) Đối với gói ma túy và những tài sản thu giữ của Bùi Tiến Đ gồm: 01 chiếc xe gắn máy biển số 59L2-709.23, 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7, Công an Phường 1, Quận 6 đã xử lý hành chính xong (theo Quyết định tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính số: 01/QĐ-THTVPT và Biên bản tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính số: 01/BB-THTVPT cùng ngày 05/3/2019; Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 15/01/2019), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Đối với Bùi Tiến Đ, tuy có hành vi cất giữ 0,0962 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) để sử dụng. Tuy nhiên, khối lượng chất ma túy mà Bùi Tiến Đ cất giữ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân Bùi Tiến Đ mới vi phạm lần đầu (chưa có tiền án - tiền sự) và ngày 15/01/2019, Công an Phường 1, Quận 6 đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính Bùi Tiến Đ 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số: 0018812/QĐ-XPVPHC), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Còn người thanh niên mà bị cáo Lê Đức A khai bán ma túy cho bị cáo và người tên Lâm mua giùm ma túy cho Bùi Tiến Đ, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Lê Đức A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Đức A phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Đức A 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2019.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu, tiêu hủy 01 (một) gói có chứa ma túy đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 402/Q6/G2, có các chữ ký của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, Điều tra viên Nguyễn Minh Tấn.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Lê Đức A 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei: 356929091911145.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Đức A phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Lê Đức A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 14/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về