Bản án 35/2017/HSPT ngày 28/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 35/2017/HSPT NGÀY 28/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 45/2017/HSPT ngày 05 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thanh S do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S đối với bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 30/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh S, sinh năm 1958 tại huyện V, tỉnh Nam Định; nơi ĐKNKTT xóm N, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định; chỗ ở xóm T, xã P, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 9/10; con ông Nguyễn Mạnh T (liệt sỹ chống Mỹ) và bà Phạm Thị L; có vợ Vũ Thị H và có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 2012; không có tiền sự; có 02 tiền án:

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 706/HSST ngày 27/8/2003 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Thanh S 06 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 06/01/2009 bị cáo S chấp hành xong bản án.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 65/2010/HSST ngày 29/11/2010 Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình xử phạt Nguyễn Thanh S 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 29/4/2016 bị cáo S chấp hành xong bản án. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 13/01/2017 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình từ ngày 19/01/2017 cho đến nay (có mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị (Tòa án không triệu tập).

Bà Phạm Thị L, sinh năm 1934; trú tại: xóm N, xã L, huyện V, tỉnh Nam Định.

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện G và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh S là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 06 giờ ngày 13/01/2016, S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 18C1 - 229.93 từ nhà đến khu vực ngã tư P thuộc địa phận phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam mục đích tìm mua Hêrôin về sử dụng cho bản thân. Tại đây, S gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không quen biết làm nghề xe ôm đang đứng ở ria đường, S hỏi “Anh ơi, ở đây có chỗ nào mua hàng không?” ý hỏi có chỗ nào bán ma túy không để S mua. Người này trả lời “Có, đưa tiền đây tôi đi lấy hộ cho rồi trả công cho tôi”. S lấy ra 500.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền rồi đi. Khoảng 20 phút sau thì quay lại đưa cho S 01 gói bột dạng cục màu trắng gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. S xác định đó là gói Hêrôin nên lấy thêm 50.000 đồng trả công cho người lái xe ôm. S cầm gói Hêrôin bỏ vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Đi được khoảng 300 mét thì S dừng xe ven đường, lấy gói Hêrôin vừa mua được ra dùng tay chia nhỏ số Hêrôin thành hai phần rồi xé mảnh giấy bạc màu vàng gói lại thành hai gói Hêrôin, một gói S cất giấu ở túi quần trước bên phải, một gói S cất giấu ở túi quần dưới đùi phải và tiếp tục điều khiển xe mô tô về nhà. Khoảng 10 giờ cùng ngày khi S đi đến khu vực chân cầu V, thuộc xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình thì bị tổ công tác của Phòng cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an tỉnh Ninh Bình phối hợp với Công an xã T yêu cầu kiểm tra hành chính, S tự nguyện lấy 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng ở túi quần trước bên phải và 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng ở túi quần dưới đùi phải S đang mặc giao nộp cho tổ công tác, cả hai gói nhỏ trên đều có chất bột dạng cục màu trắng. S khai nhận đó là 02 gói Hêrôin, S mua về sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của S một xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 18C1 - 229.93 cùng 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Cân xác định trọng lượng số bột kết tinh màu trắng trong hai gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng thu giữ của Nguyễn Thanh S có trọng lượng là 0,5721gam (trong đó gói 01 có trọng lượng là 0,3914 gam ký hiệu M1; gói 2 có trọng lượng 0,1807 gam ký hiệu M2) để quyết định trưng cầu giám định về ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 47/GĐMT ngày 16/01/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng là 0,3914 gam; M2 có khối lượng là 0,1807 gam, tổng khối lượng của M1, M2 là 0,5721 gam (không phẩy năm nghìn bảy trăm hai mươi mốt) gam đều là chất ma túy, loại Hêrôin.

Hêrôin là chất ma túy thuộc bảng danh mục 1, số thứ tự 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm:

- 0,3042 gam (không phẩy ba nghìn không trăm bốn mươi hai) gam chất bột màu trắng mẫu ký hiệu M1; 0,1269 (không phẩy một nghìn hai trăm sáu mươi chín) gam chất bột màu trắng mẫu ký hiệu M2 đều là chất ma túy, loại Hêrôin.

- Toàn bộ vỏ bao gói, trong gói niêm phong ban đầu.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 30/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm n khoản 2 Điều 249; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (nay là Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội). Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/01/2017.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định pháp luật.

Ngày 09/6/2017 bị cáo Nguyễn Thanh S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh S trình bày các lý do xin giảm nhẹ hình phạt như án sơ thẩm đã áp dụng; bản thân bị cáo có thời gian tham gia trong quân đội; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố là liệt sỹ chống Mỹ, hiện nay mẹ bị cáo ngoài 80 tuổi, sức yếu, bị cáo là lao động chính và đang chăm sóc mẹ già. Đề nghị Tòa phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tại phiên tòa phúc thẩm sau khi đánh giá tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm n khoản 2 Điều 249; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 30/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt tù; giảm mức hình phạt tù cho bị cáo Nguyễn Thanh S từ 07 năm tù xuống 06 năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Về hình thức đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thanh S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo thừa nhận bản thân là người nghiện ma tuý nên ngày 13/01/2017 đã điều khiển xe mô tô từ nhà đến thành phố P, tỉnh Hà Nam với mục đích tìm mua Hêrôin về sử dụng; bị cáo đã gặp và nhờ một người đàn ông không quen biết mua 01 gói Hêrôin với giá 500.000 đồng và trả công cho người đàn ông 50.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý bị cáo chia ra thành 02 gói nhỏ cất giấu vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô về nhà, khi đi đến khu vực chân cầu V, thuộc xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình thì bị Công an tỉnh Ninh Bình kiểm tra hành chính, bị cáo tự nguyện lấy 02 gói Hêrôin cất giấu ở 02 túi quần trước bên phải đang mặc giao nộp, Công an tỉnh Ninh Bình yêu cầu bị cáo về trụ sở Công an xã T, huyện G, tỉnh Ninh Bình để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi liên quan, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giấu 0,5721 gam Hêrôin nhằm mục đích sử dụng của Nguyễn Thanh S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Trước khi phạm tội bị cáo đã có 02 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự như bản án hình sự sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S xin giảm nhẹ hình phạt tù thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, bị cáo đã có hai tiền án chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện cho bản thân lại tiếp tục nghiện ngập dẫn đến phạm tội; hành vi của bị cáo cần phải xử lý thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định pháp luật để xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là phù hợp. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo S trình bày các lý do xin giảm nhẹ hình phạt như án sơ thẩm đã áp dụng; đồng thời trình bày gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố là liệt sỹ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, hiện nay mẹ bị cáo tuổi cao, sức yếu; bị cáo là lao động chính và là người con duy nhất chăm sóc mẹ già. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới bổ sung tại cấp phúc thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa được bản án sơ thẩm xem xét áp dụng cho bị cáo; đồng thời thực hiện các nguyên tắc có lợi cho người phạm tội được quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 3 Điều 7; điểm n khoản 2 Điều 249 (điều luật tương ứng) Bộ luật Hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy lý do xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo đưa ra là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật; mặt khác do chuyển biến tình hình về chính sách hình sự của pháp luật, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đồng thời để bị cáo có điều kiện chăm sóc mẹ già (vợ liệt sỹ) nên cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, giảm một phần hình phạt tù cho bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tại phiên tòa phúc thẩm để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Về án phí:

Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo S không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HSST ngày 30/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Ninh Bình về phần hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Thanh S.

- Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194; điểm p, o khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm n khoản 2 Điều 249; khoản 3 Điều 7; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội quy định về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo 13/01/2017.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thanh S không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 28/8/2017./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/HSPT ngày 28/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về