Bản án 35/2017/HSST ngày 04/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 35/2017/HSST NGÀY 04/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2017/HSST ngày 25 tháng 10 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2017/HSST- QĐ ngày 13/11/2017, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P; sinh năm 1996, tại Phú Yên; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm nông, làm thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Đình T, sinh năm: 1975 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1977; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người bị hại:

Vợ chồng ông Nguyễn Đình P, sinh năm: 1930 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1944; vắng mặt.

Đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

Bà Nguyễn Thị C, sinh năm: 1977, có mặt.

Đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 02 giờ 00 ngày 29/8/2017 Nguyễn Văn P lén lút mở khóa cửa vào nhà ông Nguyễn Đình P, sinh năm 1930, trú khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, để trộm cắp tài sản, P lấy chìa khóa cất trên tủ lạnh nhà ông P, mở tủ sắt lấy trộ 8.500.000đ và 01 chỉ vàng 9999 hiệu Kim Túc và 01vòng đeo tay làm bằng kim loại màu vàng, đem về nhà cất giấu. Sợ bị phát hiện nên khoảng 11 giờ cùng ngày P lấy 4.000.000đ, 01 chỉ vàng y 9999 hiệu Kim Túc và 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu vàng bỏ trước cửa nhà ông P (ông P đã nhận lại số tài sản trên).

Ngày 06/9/2017 Hội đồng định giá tài sản huyện P kết luận: 01(Một) chỉ vàng hiệu Kim Túc tại thời điểm tháng 8/2017 có giá trị 3.620.000đ.

Vòng đeo tay bằng kim loại màu vàng ông Nguyễn Đình P và bà Nguyễn Thị S xác nhận tài sản này do bà Sương nhặt được và không có giá trị nên không định giá tài sản.

Về trách nhiệm dân sự: Vợ chồng ông Nguyễn Đình P và bà Nguyễn Thị S đã nhận lại toàn bộ tài sản bị trộm cắp nêu trên, không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn P giám sát giáo dục trong thời gian thử thách; Về bồi thường dân sự: Bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường đủ cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên không giải quyết.

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định:

[1] Khoảng 02 giờ 00’ngày 29/8/2017 Nguyễn Văn P lén lút vào nhà vợ chồng ông Nguyễn Đình P và bà Nguyễn Thị S, ở khu phố Đ, thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên trộm cắp 8.500.000đ, 01 chỉ vàng y 9999 hiệu vàng Kim Túc và 01 vòng đeo tay bằng kim loại màu vàng. Tổng giá trị tài sản P chiếm đoạt 12.120.000đ (Mười hai triệu một trăm hai mươi nghìn đồng chẵn). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Hòa truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây tâm lý lo sợ cho người dân lao động lương thiện mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải quyết định mức hình phạt phù hợp, đảm bảo phòng ngừa tội phạm và giáo dục đối với bị cáo.

[3] Sau khi phạm tội, bị cáo nhận biết hành vi của mình là sai trái nên đem tài sản trả cho người bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và xin cho bị cáo được hưởng án treo, giữa bị cáo và gia đình người bị hại có mối quan hệ họ hàng, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các tình tiết giảm nhẹ này quy định tại điểm b, h, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự nên xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự , tạo điều kiện để bị cáo tự cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường đủ cho người bị hại; người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P bị kết án nên phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt : Bị cáo Nguyễn Văn P 06 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn P cho UBND Thị trấn P, huyện P, tỉnh Phú Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo Nguyễn Văn P thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy đinh tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về bồi thường dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường đủ cho người bị hại; không ai yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2017/HSST ngày 04/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Hoà - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về