Bản án 35/2018/DS-ST ngày 24/10/2018 về tranh chấp hợp đồng góp họ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 35/2018/DS-ST NGÀY 24/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỌ

Ngày 24 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2018/TLST-TCDS ngày 10/8/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp họ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐXXST-TCDS ngày 04 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tưởng Thị L, sinh năm 1974; địa chỉ: thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

2. Bị đơn:

Ông Lê Quốc N, sinh năm 1970; Nơi ĐKHKTT: thôn D1, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

Bà Trần Thị Hồng M, sinh năm 1961; Nơi ĐKHKTT: thôn D2, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

Tại phiên tòa có mặt các bên đương sự.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Tưởng Thị L trình bày:

Do có mối quan hệ quen biết từ trước nên giữa chị Tưởng Thị L và ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M có thỏa thuận chơi họ có tính lãi, việc chơi họ đã kéo dài nhiều năm và đến kỳ mở họ thì ông N hoặc bà M mang tiền gốc và lãi đến cho chị. Hàng ngày ông N hoặc bà M đi thu tại chợ theo hình thức thu ngày và thu tháng. Chị L đã nộp cho ông N và bà M tổng cộng 02 ống họ. Cụ thể:

- Ống thứ nhất: từ ngày 21/10/2015 (âm lịch) đến 20/3/2016 (âm lịch) là 05 tháng, mỗi ngày nộp 100.000 đồng. Tổng số tiền ống thứ nhất mà chị L đã nộp cho ông N bà M là: 15.000.000 đồng

- Ống thứ hai: từ ngày 11/12/2015 (âm lịch) đến 20/3/2016 (âm lịch) là 03 tháng 10 ngày, mỗi ngày nộp 100.000 đồng. Tổng số tiền ống thứ hai mà chị L đã nộp cho ông N bà M là: 10.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, chị L có ý kiến thay đổi so với yêu cầu khởi kiện trước đây, thời gian nộp ống họ thứ nhất từ ngày 21/11/2015 (âm lịch) đến ngày 20/3/2016 (âm lịch) là 04 tháng chứ không phải từ ngày 21/10/2015 (âm lịch) như trong đơn khởi kiện và quá trình hòa giải tại Tòa án xác định nộp 05 tháng. Tổng số tiền ống thứ nhất mà chị L đã nộp cho ông N bà M là 12.000.000 đồng

Như vậy, tổng số tiền cả 02 ống họ mà chị L đã nộp cho ông N và bà M là 22.000.000 đồng. Ông N và bà M chưa trả tiền lãi cho chị.

Ngày 20/3/2016, ông N và bà M tuyên bố vỡ họ và không trả lại số tiền cho chị L. Thấy hoàn cảnh kinh tế của ông bà hiện tại khó khăn chị L chỉ yêu cầu trả cho chị số tiền 20.000.000 đồng.

- Tại bản tự khai ngày 11/9/2018 và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Trần Thị Hồng M và ông Lê Quốc N trình bày:

Ông N và bà M thừa nhận là do có mối quan hệ quen biết từ trước nên giữa ông bà và chị Tưởng Thị L có thỏa thuận chơi họ có tính lãi. Chị L đã đóng tổng cộng 02 ống họ cho ông bà, mỗi ngày đóng 100.000 đồng. Tổng cộng số tiền chị L đã đóng cho ông bà là 22.000.000 đồng. Chị L yêu cầu trả số tiền 20.000.000 đồng ông bà nhất trí nhưng do bị vỡ họ không có khả năng thanh toán một lần số tiền20.000.000 đồng nên ông bà có nguyện vọng xin chị L được trả dần.

Ông N và bà M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng không có đăng ký kết hôn.

Ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q kết quả thể hiện: Tại hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã Q không thể hiện việc đăng ký kết hôn giữa ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến quá trình xét xử đều thực hiện đúng các quy định tại Điều 48, 51, 70, 71, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch không có kiến nghị đối với vụ án này. Về nội dung vụ án, áp dụng Điều 479, Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005, buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ họ 20.000.000 đồng cho chị Tưởng Thị L. Ông N và bà M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn bà Trần Thị Hồng M có nơi cư trú tại thôn D2, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình và ông Lê Quốc N có nơi cư trú tại thôn D1, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Chị Tưởng Thị L yêu cầu ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M trả cho chị số tiền nợ họ là 20.000.000 đồng do vậy Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hợp đồng góp họ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005.

[2] Xét yêu cầu của chị Tưởng Thị L về việc buộc ông N và bà M phải có nghĩa vụ trả số tiền nợ họ là 20.000.000 đồng: Giữa ông N, bà M và chị Tưởng Thị L đã phát sinh giao dịch dân sự góp họ, ông N bà M là chủ họ, chị Thanh là thành viên tham gia. Việc thỏa thuận hợp đồng góp họ giữa hai bên tuy không có xác lập bằng văn bản nhưng có giấy biên nhận giao họ và tại bản tự khai, biên bản hòa giải tại Tòa án ông N và bà M đều xác nhận hiện nay còn nợ chị L số tiền họ là20.000.000 đồng. Do các bên đã tự nguyện giao kết hợp đồng dân sự góp họ, cụthể là họ có lãi nên theo quy định tại Điều 479 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 17 Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về Họ, hụi, biêu,phường. Ông N và bà M là chủ họ đã vi phạm nghĩa vụ và theo quy định tại Điều 15, 29 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ thì ông N và bà M là chủ họ phải có nghĩa vụ trả lại cho chị L số tiền họ còn nợ là 20.000.000 đồng. Do chị L không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Hội đồng xét xử xét thấy, ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng theo biên bản xác minh ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch tại Ủy ban nhân dân xã Q thể hiện ông N và bà M không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy, ông N và bà M phải chịu nghĩa vụ liên đới đối với khoản nợ tiền họ 20.000.000 đồng của chị L theo quy định tại Điều 298 Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó, ông N và bà M mỗi người phải có nghĩa vụ trả nợ cho Tưởng Thị L số tiền nợ họ là 10.000.000 đồng.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải liên đới chịu toàn bộ án phí vụ án. Ông N và bà M mỗi người chịu 500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Xét ông N và bà M có đơn xin giảm án phí, đơn trình bày có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và gặp sự kiện bất khả kháng có xác nhận của UBND xã Q nên áp dụng Khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và L phí Tòa án giảm 50% mức án phí mà ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải chịu. Như vậy, ông N và bà M mỗi người phải chịu 250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35, 39, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự;Điều 479, Điều 298 của Bộ luật Dân sự năm 2005;Khoản 1 Điều 13, Khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tưởng Thị L.

Buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Tưởng Thị L số tiền nợ họ là 20.000.000 đồng, theo phần mỗi người phải có nghĩa vụ trả nợ cho chị Tưởng Thị L số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Kể từ ngày chị Tưởng Thị L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng Mcòn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M mỗi người phải chịu 250.000 đồng (hai trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Trả lại cho chị Tưởng Thị L số tiền tạm ứng án phí 625.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch theo biên lai số 0001132 ngày 08/8/2018.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2018/DS-ST ngày 24/10/2018 về tranh chấp hợp đồng góp họ

Số hiệu:35/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về