Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Bích T, sinh năm 1995; tạm trú: Số 436, ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A; HKTT: Số 104, ấp A, xã M, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Đào Công T, sinh năm 1995; địa chỉ: Số 104, ấp A, xã M, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa chị T là nguyên đơn trình bày: Chị T và anh T cưới nhau năm 2016 và có đăng ký kết 2016. Chung sống không hạnh phúc từ khoảng tháng 6/2018, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do chị T sinh con gái được 06 tháng anh T kêu chị T sinh thêm con trai cho anh T, chị T không đồng ý nên vợ chồng thường cự cãi. Khi chị T có mua đồ trên mạng khoảng 100.000 đồng đến 200.000 đồng thì anh T không cho, vợ chồng cự cãi, chị T ẵm con về nhà mẹ ruột và ly thân luôn đến nay. Nay chị T yêu cầu ly hôn.

Có 01 con chung tên Đào Ngọc Tâm, sinh ngày 26/6/2017. Đến 04 ngày sau ba mẹ chồng và anh T qua nhà chị T, anh T vô ẵm con về nhà luôn, lúc đó con còn bú sữa mẹ. Sau đó chị T có về nhà chồng để thăm con, nhưng chỉ đứng ngoài cửa rào nhìn vào chứ không vào nhà, vì sợ vào nhà thì nhà chồng nói bị mất đồ, nên chị T chỉ có mục đích lén về nhìn con cho đỡ nhớ, nhưng không nhìn thấy con, do đó, không có báo địa phương, lúc đó chị T đang làm công nhân cho công ty nên không có thời gian về thăm con và vì con còn nhỏ nên chị T không bắt về nuôi được. Từ lúc xa con đến nay chị T cũng không gặp được mặt con lần nào. Hiện tại chị T đi làm tại Công ty TVS Sách An Giang, lương khoảng 6.000.000 đồng/tháng, con cũng đã lớn, gửi nhà trẻ được nên chị T yêu cầu anh T giao con cho chị T nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Khi đi chị T có đem theo 06 chỉ vàng cưới vàng 24k 9999 và 01 chỉ vàng 24k 9999 là do vợ chồng dành dụm được (trong đó có 01 sợi dây chuyền 05 chỉ, 01 chỉ là đôi bông tai), 01 chiếc nhẫn cưới vàng 18k, khoảng 05 phân và 1.000.000 đồng tiền mặt là tiền bán lúa. Tuy nhiên chị T đã bán hết để trị bệnh, không nhớ bao nhiêu tiền, việc trị bệnh là bằng thuốc nam và thuốc bắc, không trị bằng thuốc tây nên không có hóa đơn chứng từ, chị T nhờ người chị chở đi dùm có 01 lần lấy đủ thuốc 01 tháng và trả đủ số tiền nên chị T không biết địa chỉ.

Trước khi mở phiên tòa chị T có yêu cầu anh T trả cho chị T khoản tiền thời gian vợ chồng chung sống là 72.000.000 đồng. Tuy nhiên tại phiên tòa chị T đã rút toàn bộ yêu cầu này nên không xem xét. Tài sản chung đã bán trị bệnh hết không đồng ý chia. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản hòa giải và tại phiên tòa anh T trình bày:

Anh T thống nhất với lời trình bày của chị T về thời gian kết hôn, việc đăng ký kết hôn, thời gian chung sống hạnh phúc. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn anh T và chị T do chị T mua đồ trên mạng nhiều tháng nào cũng mua lúc đó gia đình khó khăn nên anh T có khuyên chị T ít mua lại phần tiền con lại lo cho con. Vợ chồng cũng không cự cãi gì nhiều, chị T ẵm con về nhà mẹ ruột sống. Ngày 26/6/2018, anh T cùng ba mẹ qua nhà chị T, qua hỏi chuyện lý do bỏ nhà đi, hai bên gia đình có nói chuyện với nhau, ba mẹ chị T nói hết duyên hết nợ xảy ra cự cãi nên anh T ẵm con về, bên gia đình chị T không nói gì. Anh T báo chính quyền địa phương rồi chính quyền nói không mâu thuẫn không có nghiêm trọng gì hai bên hàn gắn lại đi. Chị T không có điện thoại, không có thăm con gì hết. Do không còn tình cảm với chị T, nên anh T đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T.

Có 01 con chung tên Đào Ngọc Tâm, sinh ngày 26/6/2017, hiện sống với anh T từ khi vợ chồng xa nhau đến nay, chị T không về thăm con, không chu cấp cho con, lúc chị T bỏ đi con còn bú sữa mẹ. Anh T yêu cầu tiếp tục nuôi con Đào Ngọc Tâm, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản: Khi đi chị T có đem theo 06 chỉ vàng cưới vàng 24k 9999 và 01 chỉ vàng 24k 9999 là do vợ chồng dành dụm được (trong đó có 01 sợi dây chuyền 05 chỉ, 01 chỉ là đôi bông tai), 02 chiếc nhẫn cưới vàng 18k, khoảng 05 phân và 3.000.000 đồng tiền mặt là tiền bán lúa. Tại phiên tòa anh T rút toàn bộ yêu cầu chia tài sản chung. Nợ chung không yêu cầu.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thuận tình ly hôn. Con chung để anh T tiếp tục nuôi dưỡng, anh T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh T đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị T và anh T chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Mỹ An Hưng A cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa chị T và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Chị T và anh T phát sinh mâu thuẫn và xa nhau từ tháng 6 năm 2018 đến nay. Quá trình chung sống có 01 con chung, nhưng khi vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn mỗi người tự lo cuộc sống riêng. Chị T bỏ đi tự lo cho bản thân. Nay chị T xin ly hôn, anh T đồng ý.

Tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

Điều 55. Thuận tình ly hôn Trong T hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận này là phù hợp nên công nhận. Đề nghị của Kiểm sát viên công nhận sự thuận tình ly hôn là phù hợp.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung, chị T và anh T có 01 con chung tên Đào Ngọc T, sinh ngày 26/6/2017, hiện sống với anh T từ khi vợ chồng xa nhau đến nay. Chị T và anh T đều có yêu cầu được nuôi con.

Xét thấy: Con chung từ khi chị T và anh T xa nhau do anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến nay. Mặc dù khi bỏ đi chị T có mang con theo, nhưng sau 04 ngày anh T đến mang con về nuôi dưỡng thì chị T không có đến thăm con lần nào, không chu cấp gì cho con mà để anh T tự nuôi dưỡng. Chị T nại ra rằng vì lý do chưa có công việc ổn định nên không có điều kiện rước con về nuôi, không đến thăm con được là điều không thể chấp nhận đối với một người mẹ. Trong khi đó, bé Tâm còn rất nhỏ rất cần vòng tay yêu thương và sự chăm sóc của mẹ. Nay chị T cho rằng có công việc làm, bé Tâm cũng đã gửi nhà trẻ được nên yêu cầu được nuôi con.

Tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; T hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ T hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.” Mặc dù con dưới 36 tháng tuổi, nhưng từ các phân tích và điều luật viện dẫn trên, chị T không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con về tinh thần và vật chất.

Xét thấy, anh T nuôi con đến nay vẫn khỏe mạnh, phát triển bình thường, do đó đủ điều kiện để nuôi con. Hơn nữa, trong năm qua bé Tâm lớn lên trong tình thương yêu, bảo bọc của cha, đã thắt chặt tình cảm cha con. Nay anh T yêu cầu tiếp tục nuôi là phù hợp. Do anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Chị T không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, anh T và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Do anh T rút toàn bộ yêu cầu chia tài sản nên đình chỉ xét xử.

[2.4]. Về nợ chung: Chị T và anh T không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị T xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 55, 59, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Bích T và anh Đào Công T.

2. Về nuôi con chung:

Anh Đào Công T được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Đào Ngọc T, sinh ngày 26/6/2017, hiện sống với anh T, anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Chị T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh T và các thành viên trong gia đình không được cản trở chị T thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản: Đình chỉ xét xử yêu cầu chia tài sản của anh Đào Công T.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Chị Lê Thị Bích T phải nộp đủ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0000259 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Chị T đã nộp đủ.

Anh T được nhận lại 394.000 đồng (Ba trăm chín mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số BH/2018/0002995 ngày 27/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

T hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về