Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 36/2018/HNGĐ-ST NGÀY15/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn - tỉnh Hoà Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 124/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 08 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 27/09/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bùi Thị K, sinh năm 1983. Cư trú và làm việc: xóm Quền, xã Bình Cảng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình (Có mặt);

- Bị đơn: Phạm Văn C, sinh năm 1983. Cư trú và làm việc: xóm Quền, xã Bình Cảng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn và các lời khai của mình, nguyên đơn chị Bùi Thị K trình bày:

1. Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn C có tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tháng 10/2014 trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau tại xóm Quền, xã Bình Cảng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đến tháng 09/2017, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh C thường xuyên chửi bới, đánh đập vợ con; quan điểm giải quyết vấn đề phát sinh trong gia đình và các vấn đề khác không đồng thuận. Hiện vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 03/2018 đến nay. Thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị K xin ly hôn để giải phóng cho cả hai, ổn định cuộc sống, yên tâm nuôi con.

2. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Phạm Anh Thư, sinh ngày 17/10/2014. Hiện cháu Thư còn nhỏ và đang sống cùng chị K. Do hiện tại anh C thường xuyên đi biển nhiều ngày nên khi ly hôn chị K xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung và chưa yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị.

3. Về tài sản; Công nợ chung: chị K khai không có. Ngoài ra chị K không có yêu cầu gì thêm.

Quan điểm của anh Phạm Văn C:

- Về tố tụng: anh Phạm Văn C có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt anh C theo thủ tục chung là có cơ sở theo qui định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về hôn nhân: Anh thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng thực sự xảy ra nhiều mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau và bản thân anh mâu thuẫn với gia đình nhà vợ. Cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, không còn tình cảm với nhau nữa do vậy anh C đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Khi ly hôn anh C yêu cầu được trực tiếp nuôi con cháu Phạm Anh Thư do điều kiện kinh tế của anh tốt hơn chị K. Dù anh thường xuyên đi biển dài ngày nhưng ở nhà có chị gái và mẹ anh chăm sóc cháu.

Các vấn đề khác anh đồng ý với quan điểm của chị K.

Phát biểu quan điểm tại phiên toà, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình công nhận việc chấp hành đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án. Việc giải quyết vụ án Kiểm sát viên đề nghị như sau:

Về hôn nhân: Xác định mâu thuẫn giữa chị K và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận thỏa thuận thuận tình ly hôn của chị K, anh C là phù hợp Điều 51; Điều 55; khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về con chung: Do anh C thường xuyên đi làm ăn xa; cháu Thư đang sống với mẹ, chị K có đủ điều kiện nuôi con nên căn cứ các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị K giao cháu Thư cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng và chưa giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung do đương sự chưa có yêu cầu.

Về tài sản; công nợ chung: chị K, anh C đều thừa nhận không có nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết trong vụ án.

Ngoài ra không ai có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: anh Phạm Văn C đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm Quền, xã Bình Cảng, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Quá trình giải quyết vụ án, do bận đi biển dài ngày nên anh C đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh C. Do đó HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh C theo thủ tục chung là có cơ sở theo qui định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về hôn nhân: Quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án HĐXX xét thấy: Quan hệ hôn nhân giữa anh C và chị K là hợp pháp. Cuộc sống chung vợ chồng thực sự phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng có quan điểm không đồng thuận; bản thân anh C mâu thuẫn với gia đình nhà vợ; thường xuyên đi làm ăn xa nhà; cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, bất hòa, thậm chí xô Xát, mắng chửi nhau; hiện vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 03/2018 đến nay. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa anh C và chị K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu thuận tình ly hôn giữa chị K với anh C là phù hợp Điều 51; Điều 55; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân &Gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung: Anh C và chị K có 01 con chung là Phạm Anh Thư, sinh ngày 17/10/2014. Hiện cháu Thư còn nhỏ và đang sống cùng chị K. Do hiện tại anh C đi làm ăn xa, thường xuyên đi biển nhiều ngày nên khi ly hôn chị K xin trực tiếp nuôi dưỡng con chung và chưa yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị. Anh C cũng xin được trực tiếp nuôi con vì điều kiện kinh tế của anh C tốt hơn chị K và dù anh C thường xuyên đi làm ăn xa nhưng ở nhà có chị gái và mẹ anh C chăm sóc cháu Thư.

HĐXX xét thấy: Theo kết quả xác minh tại địa phương và lời khai của các đương sự thấy: Hiện các cháu Thư còn nhỏ và đang sống cùng chị K; anh C thường xuyên đi biển nhiều ngày; chị K lao động tại địa phương và có đủ thu nhập và chỗ ở ổn định để nuôi con. Xét quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên và yêu cầu của các bên đương sự thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị K là phù hợp các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Chị K chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung; Theo kết quả xác minh tại địa phương thì chị K có đầy đủ điều kiện nuôi con. Căn cứ các Điều 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014, HĐXX xét thấy chưa cần thiết giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung trong vụ án. Việc cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

[4]. Về tài sản; công nợ chung: chị K, anh C đều thừa nhận không có nên HĐXX không đề cập giải quyết trong vụ án.

[5]. Về án phí: Chị K phải chịu án phí theo qui định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điều 51; Điều 55; khoản 1 Điều 56; 58; 81; 82; 83 Luật Hôn Nhân- Gia Đình năm 2014; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Xử chấp nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị K và anh Phạm Văn C.

- Về con chung: Giao cháu Phạm Anh Thư, sinh ngày 17/10/2014 cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng từ tháng 10/2018 trở đi cho đến khi cháu Thư đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Chị K chưa yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung với chị. Anh C có quyền đi lại thăm con chung không ai được cản trở.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự buộc chị K phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ 300.000đ dự phí chị K đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004373 ngày 14/05/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, nay chị K không phải nộp án phí nữa.

Đã báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 15/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:36/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về