Bản án 36/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 36/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại nhà văn hóa trung tâm huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thành L, sinh ngày 25/8/2000 tại xã HP. Nơi cư trú: Xóm 5B, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Thêu, sinh năm 1977; chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/4/2018 đến ngày 11/4/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. “Có mặt”

2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1999 tại xã HĐ. Nơi cư trú: Xóm 11, xã HĐ, huyện HH, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Phê, sinh năm 1978 và bà Đỗ Thị Thúy, sinh năm 1980; chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/6/2013, bị UBND huyện Hải Hậu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng; bị tạm giữ từ ngày 05/4/2018 đến ngày 11/4/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. “Có mặt”

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thành L: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1975; nơi cư trú: Xóm 5B, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định là bố đẻ bị cáo. “Có mặt”

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành L: Ông Hoàng Minh Khôi- Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Trung tâm- Đoàn Luật sư tỉnh Nam Định. “Có mặt”

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1968; nơi cư trú: Xóm 8B, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

2. Anh Nguyễn Huy H1, sinh năm 1999; nơi cư trú: Xóm 8B, xã HP, huyện HH, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

- Người chứng kiến:

1. Anh Vũ Văn Ch, sinh năm 1970; nơi cư trú: Xóm 14, xã HA, huyện HH, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

2. Anh Trần Văn T, sinh năm 1989; nơi cư trú: Xóm 17, xã HA, huyện HH, tỉnh Nam Định. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 05/4/2018, Nguyễn Thành L rủ Nguyễn Văn H góp tiền với người đàn ông tên Hảo mà L mới quen đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng, H đồng ý. H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 18P9 - 1885 chở L đến điểm hẹn gặp Hảo, Hảo đưa cho L số tiền 500.000 đồng. Do L không biết chỗ bán ma túy nên H chở L đến khu vực chợ cồn, huyện Hải Hậu, H dừng xe bảo L đứng chờ, H cầm tiền đi vào chợ gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 ống nhựa màu xanh bên trong có chứa ma túy đá với số tiền 500.000đ. Người đàn ông này còn cho H01 ống nhựa màu trắng bên trong có chứa ma túy đá. Sau đó, H đi ra gặp và đưa cho L 02 ống nhựa chứa ma túy rồi điều khiển xe chở L đến khu vực gần nhà nghỉ Bên Sông thuộc xóm 17, xã HA, huyện Hải Hậu. Quá trình điều khiển xe, H gọi điện thoại rủ Hảo đến khu vực xóm 17, xã HA để sử dụng ma túy. Khoảng 19 giờ 30 phút

2 cùng ngày, H bảo L đưa 01 ống ma túy đá cho H cất vào túi quần để hôm sau cùng sử dụng, còn 01 ống ma túy đá L cất ở túi quần bên trái chờ Hảo đến cùng sử dụng thì bị Tổ công tác của Công an tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang. Quá trình bắt giữ, tổ công tác thu giữ của L01 ống nhựa màu xanh bên trong có các hạt tinh thể dạng rắn màu trắng (niêm phong ký hiệu L), thu giữ của H 01 ống nhựa màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng rắn màu trắng (niêm phong ký hiệu H). L và H khai nhận đó là ma túy đá vừa mua về để cùng sử dụng. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của L 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ; thu giữ của H 01 điện thoại di động N6 màu vàng đã cũ, 01 xe mô tô biển kiểm soát 18P9 - 1885.

Tại bản kết luận giám định số 308/GĐKTHS ngày 06/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu H, L gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu H là 0,174gam, khối lượng mẫu L là 0,370 gam.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 23/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu truy tố các bị cáo Nguyễn Thành L và Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung vụ án đã nêu trên.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Nguyễn Thành L, Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; riêng bị cáo L áp dụng thêm khoản 1, khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành L từ 18 đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2018; bị cáo Nguyễn Văn H từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án đã thu giữ trong quá trình điều tra, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

- Trong phần tranh luận, các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo L không có ý kiến tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành L, Luật sư Hoàng Minh Khôi tranh luận: Sau khi phân tích tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

- Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hải Hậu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Thành L và Nguyễn Văn H tại phiên tòa được chứng minh bằng biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, bằng lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng các tài liệu khác đã được lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05/4/2018, tại khu vực xóm 17, xã Hải Anh, huyện Hai Hậu, tỉnh Nam Định, tổ công tác của Công an tỉnh Nam Định phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thành L và Nguyễn Văn H đang cất giấu trái phép trong túi quần 02 ống nhựa bên trong có chứa Methamphetamie có tổng khối lượng 0,544gam để cùng sử dụng. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mà tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Hậu đã truy tố là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ma túy đã và đang gây tác hại xấu cho sức khỏe của người sử dụng; làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, làm khánh kiệt về kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình và chính ma túy là nguyên nhân làm gia tăng nhiều loại tội phạm và làm lan truyền nhiều loại bệnh dịch nguy hiểm. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm nhưng giản đơn. Bị cáo L là người rủ rê bị cáo H đi mua ma túy về cùng sử dụng nhưng bị cáo H là người tìm địa điểm mua ma túy và trực tiếp mua ma túy nên bị cáo L và bị cáo H giữ vị trí ngang nhau trong vụ án này.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thì thấy: Ngày 10/6/2013, bị cáo Nguyễn Văn H bị UBND huyện Hải Hậu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng. Như vậy, Nguyễn Văn H là người có nhân thân xấu. Tuy nhiên, trong vụ án này, các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khi phạm tội, bị cáo L là người chưa thành niên nên bị cáo L còn được áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại khoản 1; khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự 2015.

[6] Từ những phân tích ở trên, xét có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình, đồng thời cho bị cáo L được áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với bị cáo H như đề nghị của Kiểm sát viên và của Luật sư tại phiên tòa hôm nay là phù hợp.

[7] Đối với người đàn ông tên Hảo đưa tiền cho L, H đi mua ma túy và người đàn ông bán Methamphetamine cho H tại thị trấn cồn, do L và H không biết tên tuổi, địa chỉ và không nhớ Hảo sử dụng số thuê bao nào trong trong quá trình liên lạc nên không có căn cứ để xác minh xử lý.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có công việc ổn định, sống phụ thuộc gia đình, bị cáo L là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy Cơ quan điều tra đã thu giữ trong vụ án là vật cấm lưu hành xét cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ của L và 01 điện thoại di động N6 màu vàng đã cũ của H, do L và H sử dụng để liên lạc đi mua và sử dụng ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[11] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 18P9 - 1885 là tài sản của ông Nguyễn Văn Khánh, sinh năm 1968 ở xóm 8, xã HP, huyện Hải Hậu, ông Khánh cho H mượn xe, không biết việc H và L sử dụng đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra trả lại xe cho ông Khánh quản lý, sử dụng là phù hợp.

[12] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo L thêm khoản 1, khoản 6 Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thành L và Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2018.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thu niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số 1308/GĐKTHS ngày 06/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu N6 màu vàng đã cũ.

 (Các vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Hậu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu ngày 05/6/2018).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Nguyễn Thành L và Nguyễn Văn H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo L, người bào chữa cho bị cáo L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về