Bản án 36/2019/DS-ST ngày 08/10/2019 về tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 36/2019/DS-ST NGÀY 08/10/2019 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN 

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 262/2019/TLST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2019 về việc Tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2019/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 122/2019/QĐST-DS, ngày 19 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm: 1978, Địa chỉ: Ấp 4, xã MT, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh N, sinh năm 1993, Chị Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1993, Cùng địa chỉ: Khóm MT, thị trấn MT, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

(Anh M có đơn xin xét xử vắng mặt, anh N và chị T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2019, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 13/6/2019 và đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 07/10/2019, nguyên đơn anh Nguyễn Văn M trình bày như sau:

Ngày 08/3/2018 đến ngày 01/12/2018, vợ chồng anh Nguyễn Thanh N, chị Nguyễn Thị Huyền T có mua thuốc bảo vệ thực vật tại cửa hàng của anh còn nợ lại số tiền 41.268.000 đồng, có xác lập bản đối chiếu công nợ đề ngày 01/12/2018, sau đó thì anh N có trả được số tiền là 9.000.000 đồng, còn nợ lại 32.268.000 đồng, vợ chồng anh N hứa trả nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện.

Nay anh Nguyễn Văn M yêu cầu anh Nguyễn Thanh N cùng chị Nguyễn Thị Huyền T phải có trách nhiệm liên đới trả cho anh M số tiền mua bán thuốc bảo vệ thực vật còn thiếu là 32.268.000 đồng, yêu cầu tính lãi suất 0.83%/tháng kể từ ngày khởi kiện (ngày 13/4/2019) đến ngày ngày 08/10/2019 với số tiền làm tròn là 1.500.000 đồng. Tổng cộng tiền nợ gốc và lãi suất là 33.768.000 đồng (ba mươi ba triệu, bảy trăm sáu mươi tám nghìn đồng).

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ là Bản đối chiếu công nợ đề ngày 01/12/2018 (bản gốc) để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ.

- Bị đơn anh Nguyễn Thanh N và Nguyễn Thị Huyền T đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cùng các giấy triệu tập hợp lệ nhưng đều không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham gia các phiên hòa giải cũng như phiên tòa xét xử của Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định;

[1] Về tố tụng: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng dân sự về mua bán tài sản. Về thẩm quyền giải quyết vụ án, theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Ngoài ra, bị đơn anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T hiện đang cư trú tại khóm MT, thị trấn MT, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa ngày 19/9/2019 và ngày 08/10/2019, bị đơn anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có người đại diện tham gia phiên tòa, đồng thời anh N, chị T cũng không có yêu cầu phản tố trong vụ án này; đối với anh nguyễn Văn M vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 07/10/2019. Vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh M, anh N, chị T theo điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn là anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T phải trả số tiền mua bán thuốc bảo vệ thực vật còn thiếu là 32.268.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa anh M và vợ chồng anh N, chị T có giao dịch mua bán thuốc bảo vệ thực vật, trong quá trình mua bán với nhau thì vợ chồng anh N còn thiếu của anh M số tiền 41.268.000 đồng, khấu trừ số tiền 9.000.000 đồng mà vợ chồng anh N đã trả, còn lại số tiền 32.268.000 đồng, đã được anh M chứng minh bằng bản đối chiếu công nợ đề ngày 01/12/2018 do anh N và chị T tự viết và ký tên. Biên nhận này do anh M giao nộp cho Tòa án thể hiện đúng như lời trình bày của anh M.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án và thu thập chứng cứ, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng, thể hiện rõ nội dung vụ việc và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng như tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện cho anh N, chị T. Tuy nhiên, anh N, chị T vẫn không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án cũng như không có ý kiến phản bác, yêu cầu phản tố hay yêu cầu gì khác liên quan đến yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.

Tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử xác định hợp đồng mua bán giữa hai bên đương sự là có thật nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền mua bán thuốc bảo vệ thực vật còn thiếu là 32.268.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về lãi suất: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả lãi với mức lãi suất 0,83%/tháng đối với số tiền 32.268.000 đồng kể từ ngày 13/4/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 08/10/2019) với số tiền làm tròn là 1.500.000 đồng.

Hi đồng xét xử xét thấy, theo bản đối chiếu công nợ đề ngày 01/12/2018 đã được xác lập giữa hai bên do anh M giao nộp không có thể hiện lãi suất và cũng không thể hiện về thời hạn trả nợ. Như vậy giao dịch giữa hai bên là hợp đồng mua bán không có lãi suất nên nghĩa vụ trả nợ phải phát sinh kể từ ngày khởi kiện là ngày 13/4/2019, mức lãi suất 0,83%/tháng do bị đơn chậm thực hiện nghĩa vụ mà anh M yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận mức lãi suất 0,83%/tháng kể từ ngày 13/4/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 08/10/2019) với số tiền làm tròn là 1.500.000 đồng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của anh Nguyễn Văn M được chấp nhận nên anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T phải có trách nhiệm liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a và b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 357, 430, 440 của Bộ Luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

- Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn M. Buộc anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T phải có trách nhiệm liên đới trả cho anh Nguyễn Văn M số tiền mua bán thuốc bảo vệ thực vật còn thiếu là 32.268.000 đồng và tiền lãi 1.500.000 đồng; tổng cộng là 33.768.000 đồng (ba mươi ba triệu, bảy trăm sáu mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí:

+ Tiền án phí dân sự sơ thẩm là 1.688.400 đồng, anh Nguyễn Thanh N và chị Nguyễn Thị Huyền T phải có trách nhiệm liên đới chịu.

+ Anh Nguyễn Văn M không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 800.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 6605 ngày 17/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/DS-ST ngày 08/10/2019 về tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán tài sản 

Số hiệu:36/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về