Bản án 36/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 20/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số247/2018/HSST ngày 17/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2019/QĐXXST-HS ngày 06/3/2019 đối với bị cáo:

Ngô Hoàng T; Giới tính: Nam; sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: khu phố 1, phường An Lạc A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Ngô Văn D và bà Nguyễn Thị T; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Nguyễn Thị Kim N, 01 con sinh năm 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 04/4/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại trại giam Bố Lá, ngày 03/7/2017 được tha về địa phương; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 15/9/2018 (có mặt).

Ngày 28/12/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo 01 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện bị cáo đang chấp hành bản án trên.

Bị hại: Ông Nguyễn Đức T, trú tại: phường 03, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T, trú tại: phường An Lạc A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; (Có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 24/3/2018, Ngô Hoàng T điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Dylan biển số 59E1-686.36 chạy từ nhà ở địa chỉ: phường An Lạc A, quận Bình Tân qua địa bàn quận Gò Vấp để tìm mua phụ tùng xe gắn máy. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T đến tiệm buôn bán phụ tùng xe gắn máy tên “SH Gò Vấp” tại địa chỉ Phạm Ngũ Lão, phường 3, quận Gò Vấp do anh Nguyễn Đức T làm chủ. Lúc này anh T đang sửa xe cho khách, T dựng xe gắn máy ở ngoài rồi đi vào trong tiệm gặp anh T để hỏi mua 01 bộ phụ tùng xe Honda SH, anh T lấy 01 bộ phụ tùng xe SH cho T nhưng T không mua. Cùng lúc này T phát hiện thấy chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus của anh T để trên bàn trong tiệm nên nảy sinh ý định chiếm đoạt đem bán lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng lúc anh T sơ hở vì chăm chú sửa xe cho khách, T lén lút dùng tay lấy trộm điện thoại trên rồi đi ra khỏi tiệm nổ máy xe tẩu thoát. Tuy nhiên sau khi xảy ra sự việc trên thì anh T không đến Công an phường 3, quận Gò Vấp để trình báo.

Đến ngày 31/3/2018, bạn của anh T là Phan Văn C (sinh năm: 1991, hành nghề buôn bán phụ tùng xe gắn máy tại địa chỉ: phường Tân Hưng Thuận, quận 12) phát hiện T đến tiệm của mình để hỏi mua phụ tùng xe nên giữ lại rồi báo cho anh T biết. Anh T xác định chính T là người đã chiếm đoạt chiếc điện thoại của mình nên cùng anh C và một người bạn khác là anh Huỳnh Tấn P (sinh năm 1991, hành nghề sửa chữa xe gắn máy tại địa chỉ phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân), cũng bị T chiếm đoạt tài sản, báo cho Công an phường Đông Hưng Thuận, quận 12 biết lập hồ sơ xử lý rồi chuyển giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 12.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận 12, Ngô Hoàng T thừa nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của anh T như trên và thừa nhận chiếm đoạt của anh Huỳnh Tấn P 01 thùng linh kiện phụ tùng xe gắn máy (có thu giữ vật chứng). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận 12 đã chuyển toàn bộ hồ sơ, vật chứng cùng đối tượng Ngô Hoàng T cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân thụ lý theo thẩm quyền. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra Công an quận Bình Tân đã trả tự do cho Ngô Hoàng T.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Ngô Hoàng T. Tuy nhiên do T không có mặt ở địa phương nên không bắt được T. Ngày 20/8/2018 Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với Ngô Hoàng T. Đến ngày 15/9/2018 Ngô Hoàng T bị Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bắt giữ và ra quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với Ngô Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản”. Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp ra quyết định đình nã đối với T.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp Ngô Hoàng T đã nhận tội và khai nhận sau khi chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh Thuận thì T rao bán trên mạng Chotot.vn. Khoảng 02 ngày sau, T bán chiếc điện thoại này cho một người đàn ông khoảng 40 tuổi không rõ lai lịch, tại trước siêu thị Aone quận Tân Phú được số tiền 3.000.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài hết.

Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động (không thu hồi được). Tại bản kết luận định giá tài sản số 199/KL ngày 11/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận: Ước tính giá trịđiện thoại Iphone 7 Plus 128GB Rose Gold, số imei 353812082299554, hàng chính hãng đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 24/3/2018 là 8.000.000 đồng. 

Ngày 30/10/2018, bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1963, trú tại: phường An Lạc A, quận Bình Tân) là mẹ ruột của bị can Ngô Hoàng T đã bồi thường cho anh T số tiền là 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng), anh T đã đồng ý nhận bồi thường và làm đơn xin xét giảm nhẹ hình phạt cho T.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 06/12/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Ngô Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử

- Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Ngô Hoàng T đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Ngô Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là 01 chiếc điện thoại di động được định giá là 8.000.000 đồng nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở. Bên cạnh đó bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo, nên cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Đối với bản án số 59/HSST ngày 28/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt bị cáo 01 năm 04 tháng tù về tội trộm cắp tài sản đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử sẽ tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã thay bị cáo bồi thường cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay, bị hại là ông Nguyễn Đức T vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện bà Nguyễn Thị T là mẹ của bị cáo đã thay bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền là 7.000.000 đồng, ông T đã đồng ý nhận bồi thường không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

Tại phiên toà hôm nay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Thị T khai nhận đã thay mặt bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 7.000.000 đồng, bà T đồng ý cho bị cáo luôn số tiền đã bồi thường và không yêu cầu bị cáo trả lại nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[8] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong; Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Ngô Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng T 01(một) năm 06(sáu) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015;

Tổng hợp hình phạt đối với bản án số 509/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 02(hai) năm 10(mười) tháng tù.

Thời hạn tù được tính kể từ ngày 15/9/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về